Wednesday, March 20, 2013

Bay Trong Lữa Đạn (Kỳ 1)

Ký ức chiến trườngTruyện nhiều kỳ
Bay trong lửa đạn (Kỳ I)


KingBeeMan & Lãng Tử
LNÐ: Gần 30 năm sau chiến tranh Việt Nam, những tài liệu mật về cuộc chiến bên ngoài lãnh thổ Miền Nam lần lượt được chánh phủ Hoa Kỳ phổ biến. Do đó người ta được biết nhiều hơn về những chiến sĩ vô danh trong những trận chiến vô danh, nhưng thật khốc liệt. Ðây là câu chuyện kể lại của một người trong cuộc về những chuyến bay thả biệt kích dọc theo "Ðường Mòn Hồ Chí Minh" của Phi Ðòan 219. Phi Ðoàn này được các biệt kích và các phi công của cả Việt Nam và Hoa Kỳ biết dưới danh hiệu "King Bee".



Khởi thủy của Phi Ðoàn là một Biệt Ðội Trực Thăng xử dụng 3 chiếc trực thăng H34 được thành lập ở Nha Trang để thi hành công tác xâm nhập và triệt xuất các toán biệt kích Delta thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt Việt Nam hoạt động sâu trong lòng địch ở Vùng II và III Chiến Thuật. Vài tháng sau đó Biệt Ðội thứ hai cũng được thành lập ở Ðà Nẵng để họat động trong Vùng I Chiến Thuật. Phi hành đoàn đầu tiên T/U Phan Thế Long, T/U Nguyễn Bảo Tùng và Th/S Bùi Văn Lành đã hy sinh vì công vụ ngày18/10/1965 tại vùng Khâm Ðức trên đó có Th/T Larry Thorne của Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ (Green Berets). Sau hơn 30 năm tìm kiếm, di hài của 4 người đã được tìm thấy, và tháng 8 năm 2003 vừa qua, Hoa Kỳ đã long trọng làm lễ mai táng cả 4 người trong cùng một quan tài ở Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington, Washington D.C. với lễ nghi quân cách, như một hành động nhìn nhận sự chiến đấu hào hùng của Phi Ðòan 219 "King Bee", nói rộng ra là của các chiến sĩ Không Quân cùng các chiến sĩ thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Biệt Ðòan 83 "Thần Phong" được thành lập vào năm 1964 với Chỉ Huy Trưởng là Ðại Tá Nguyễn Cao Kỳ, gồm các Biệt Ðội Khu Trục nổi tiếng với các phi vụ "Bắc Phạt", Biệt Ðội Vận Tải thi hành những phi vụ tối mật thả dù điệp viên và các toán biệt kích ra Bắc, và Biệt Ðội Trực Thăng đảm trách phi vụ mật, thả các toán biệt kích dọc theo "Ðường Mòn Hồ Chí Minh" xuất phát từ các căn cứ Khe Sanh, Tà Bạt, A Shau, Khâm Ðức thuộc Vùng I, Dakpek, Ben Het, Dakto, Ðức Cơ, Plei Jereng, Tieu Atar, Bandon, Ðức Lập thuộc Vùng II, và BuPrang, Quản Lợi, Sông Bé thuộc Vùng III.

Những phi vụ mật này chỉ mới được phổ biến gần đây sau thời gian 25 năm mà luật pháp Hoa Kỳ định cho thời kỳ bảo mật hồ sơ. Tuy nhiên các hành động oai hùng của các anh hùng trong Biệt Ðoàn cũng đã được nhắc nhở tới từ thập niên 60 cho đến nay về các huyền thọai của cuộc chiến Việt Nam như các phi công Phạm Phú Quốc, Vũ Khắc Huề của các phi vụ Bắc Phạt, Luân Cowboy, Hùng Mustachio (Hùng Râu Kẽm), Khôi Ðen, An Cào Cào, Tưởng Khùng v.v... của những phi vụ dọc theo Ðường Mòn HCM...

Biệt Ðội Khu Trục thi hành các phi vụ "Bắc Phạt", được ít lâu phải đình chỉ vì áp lực từ phía Hoa Kỳ. Các phi vụ xâm nhập miền Bắc do Biệt Ðội Vận Tải (Cò Trắng) thực hiện cũng giảm sút khi OPLAN 34A bị thay thế bằng OPLAN 35 của Hoa Kỳ. OPLAN 35 nhằm kiểm sóat sự xâm nhập của Bắc quân theo "Ðường Mòn Hồ Chí Minh", do đó hai Biệt Ðội Trực Thăng được sát nhập lại vào năm 1966 dưới sự chỉ huy của Ð/U Hồ Bảo Ðịnh để thành lập Phi Ðòan 219 "Thần Phong Long Mã", và thêm vào đó một số các nhân viên phi hành từ các Phi Ðòan 211, 213, 215, 217 tình nguyện về phục vụ để đưa tổng số nhân viên theo đúng cấp số Phi Ðòan.

Ðợt cải tổ toàn diện lần thứ hai khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh giải tán Biệt Ðoàn để cô lập hóa Tướng Kỳ, các Biệt Ðội Khu Trục và Vận Tải được trả về đơn vị gốc, và Phi Ðoàn 219 được đưa về trực thuộc Không Ðòan 41 tại Ðà Nẵng vào tháng 5 năm 1968 và tiếp tục giữ nguyên nhiệm vụ yểm trợ OPLAN 35. Ð/U Hồ Bảo Ðịnh được thay thế với Th/Tá Ðặng Văn Phước (cấp bậc và chức vụ sau cùng là Ðại Tá Không Ðòan Trưởng KÐ 51).

Lần cải tổ toàn diện lần thứ ba xảy ra vào mùa Hè 1972, Th/Tá Nguyễn Văn Nghĩa được lệnh di chuyển Phi Ðoàn về Nha Trang, trực thuộc Sư Ðòan II Không Quân, khi đó Hoa Kỳ đã chấm dứt OPLAN 35. Trong 2 năm cuối Phi Ðoàn có 3 vị PDT lần lượt là Tr/Tá Nguyễn Văn Nghĩa, Th/Tá Huỳnh Văn Phố, Tr/Tá Phạm Ðăng Luân. Từ khi về Nha Trang, nhiệm vụ Phi Ðoàn thay đổi, không còn thi hành nhiệm vụ hoạt động ngoại biên nữa mà lãnh trách nhiệm họat động trong Vùng II Chiến Thuật. Tuy nhiều phi công đàn anh rời Phi Ðoàn vào lúc này, nhưng các phi công trẻ mới về phục vụ cũng không để mất đi truyền thống hào hùng của một đơn vị huyền thọai.




Gần 30 năm sau cuộc chiến, tôi mới có dịp ngồi ôn lại dĩ vãng để ghi lại những dòng chữ này, nhớ đến các Anh trong Phi Ðòan 219, từ những người đã anh dũng hy sinh nơi chiến trận, cho đến những người còn lại quê nhà cũng như những người đang sống xa quê hương trên cùng khắp mặt địa cầu này. Các Anh luôn sống mãi trong tim tôi. Những vui buồn, đau thương, mất mát của những năm sống bên "nỗi chết không rời", bây giờ nhìn lại quả thật là những năm "đẹp" nhất trong đời mà tôi không bao giờ quên được.

Tôi về trình diện Phi Ðoàn 219 vào giữa tháng 5 năm 1968 sau khi hoàn tất khóa Cơ Phi tại Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang cùng với 5 người bạn cùng khóa. Khi đó Phi Ðoàn vừa hoàn tất đợt cải tổ lần thứ hai, được tái phối trí trực thuộc Không Ðòan 41 vì Biệt Ðoàn 83 được lệnh giải tán. Sau khi trình diện Th/Tá Phi Ðoàn Trưởng Ðặng Văn Phước, chúng tôi được giao lại cho hai vị Trưởng Toán Cơ Phi (Chief Mévos) là Ch/u Phan Văn Tưởng & Ch/u Hồ Văn Nguyên để được hướng dẫn về cách làm việc của Phi Ðòan. C/U Tưởng tuy đã lớn tuổi và có rất nhiều giờ bay nhưng ông vẫn không sờn lòng bay bổng, ông rất vui vẻ và thương mến chỉ dẫn chúng tôi, trong khi đó C/U Nguyên ít nói khó tính và không còn đi bay nữa.

Qua hôm sau chúng tôi được đi cắt đi bay ngay vi lúc đó Phi Ðoàn đang thiếu Cơ Khí Viên Phi Hành (gọi tắt là Cơ Phi hay "Mevo" từ tiếng Pháp "Mécanique de Vol", trong khi đó người Mỹ dùng danh từ "Flight Engineer"), sau một tuần đi bay liên lạc và huấn luyện, chúng tôi được cho thả hành quân.

Hơn 4 năm đồn trú tại Ðà Nẵng, tôi không thể nào quên những cơn nắng cháy da và những cơn gió Lào nóng như cát rang trong chảo của mùa hè ở Miền Trung, rồi khi mùa mưa tới, những cơn bão với gió thổi mạnh đến cả trăm cây số giờ thổi bay tất cả nhà, và những trận mưa dầm gây lụt lội khắp nơi. Bay ở trên cao tôi nhìn xuống thấy nước ngập che phủ nhà cửa, cây cối, lâu lâu có một vài căn nhà trên đồi còn sót lại trơ trọi như những hòn đảo nhỏ. Khi mùa rét tới, bầu trời trần mây thấp, che kín ảm đạm u sầu, ai nấy co ro trong những cơn gió lạnh ẩm sũng nước, luồn qua áo quần như cắt da, cắt thịt.

Kỷ niệm đầu đời đi bay của tôi là phi vụ liên lạc với anh Ðinh Quốc Thinh. Tôi chưa biết đọc phi lệnh, nên không biết là phi vụ cất cánh thật sớm nên cứ tà tà "xây chừng sịt tẩy" cho đến khi Nghiêm chạy ra báo phi cơ sắp cất cánh chỉ thiếu cơ phi. Tôi hoảng hồn chạy ra bỏ quên cả ấn tín (hộp quẹt Zippo và bao thuốc Capstan). Ra tới nơi cánh quạt phi cơ đang được "engaged" từ từ lấy trớn quay. Tôi sợ quá cứ bài vở thi hành, trước khi bay phải làm tiền phi, bèn mở nắp nhớt ra để kiểm tra, thì lập tức nhớt trong bình phun ra đầy mặt và quần áo, rất may mà mới mở máy chứ không bị phỏng nặng rồi. Anh Thinh vội leo xuống và đẩy tôi lên máy bay, trong lúc trời còn tối, rồi nói: "Ði lên nhanh lên, Kỹ Thuật nó ra, trông thấy nó cười chết!", và anh Thinh bay thẳng sang căn cứ Non Nước của Biệt Kích Lôi Hổ nằm gần hòn núi Ngũ Hành Sơn ngó ra bãi biển Mỹ Khê. Trong lúc mọi người vào ăn sáng, tôi ở ngoài "parking" cởi quần áo tắm giặt bằng xăng, nên cũng chỉ trong chốc lát thôi là sạch và khô ngay, sau đó tôi mới vào "mess hall" (phòng ăn) ăn sang chờ phi vụ. Tôi nhìn quanh thấy có nhiều người nhìn tôi vì người tôi bốc lên toàn mùi xăng và tay tôi thì khô mốc trắng lên.

Thời đó một Phi Hành Ðoàn H-34 "Choctow" chỉ có 3 người, Trưởng Phi Cơ, Hoa Tiêu Phó, và Cơ Phi kiêm nhiệm Xạ Thủ Phi Hành xử dụng Ðại Liên M60, về sau khoảng giữa năm 1972, Phi Ðoàn mới chuyển sang bay UH-1 "Huey", lúc đó có thêm Xạ Thủ Phi Hành thủ một khẩu M60 ở cửa bên kia. Phi Ðoàn 219 chuyển sang UH-1 sau các Phi Ðoàn khác 2 năm, vì Trực Thăng H-34 tuy nặng nề, cồng kềnh, khó bay nhưng lại rất thích hợp với các phi vụ đặc biệt này vì nó có thể chịu đạn được, nhiều khi phi cơ bị trúng đạn nặng nề mà vẫn có thể đáp khẩn cấp an toàn được để chiếc bay "air cover" (còn gọi là "chase ship") nhào xuống cứu kịp.

Tai nạn đầu tiên xảy ra cho tôi vào ngày 5 tháng 10 năm 1968 khi đi bay chiếc số 2 trong Phi Hành Ðoàn (PHÐ) với hai anh Nguyễn Tấn Trọng và Phạm Ngọc Sâm, sau chiếc "lead" của PHÐ Anh Phan văn Thanh và trước chiếc số 3 của PHÐ anh Nguyễn Tấn Hiền. Các Trưởng Phi Cơ vào Phòng Hành Quân "briefing", còn chúng tôi ăn sáng trong "Club" chờ. Ngày hôm đó chúng tôi được lệnh thả 1 toán 7 người phía Tây Ashau. Anh Thanh bay chiếc đầu thả 4 còn Anh Trọng chiếc thứ nhì thả 3 "troops". Anh Hiền bay "air cover". Khi Anh Thanh xuống, ở dưới địch quân bắn lên dữ dội, nhưng Anh Thanh chẳng nghe gì cả tiếp tục thả (mọi người vẫn thường gọi anh là Thanh Ðiếc), rồi tới lượt chiếc thứ nhì tiếp tục xuống thả 3 "troops" còn lại. Khi anh Trọng thả xong, vừa cất cánh bay vòng để lấy hướng đi lên thì tôi thấy rõ ràng có mấy tên địch chạy ra bắn theo và phi cơ bị bắn trúng mấy phát nghe bộp... bộp... Lúc đó tôi thấy chùm giây điện trước cửa phòng hành khách bị cháy, tôi vội tháo một găng tay ra đập còn một găng kia tôi chụp vào chùm giây dập tắt nó ngay, nhưng chưa kịp mừng thì ở dưới tiếp tục bắn lên, trúng ngay trước chân tôi. Tôi trông thấy rõ ràng sàn tàu mở ra trong khoảnh khắc, rồi xăng phụt lên, tôi vội đạp lên chặn không cho xăng phụt ra cháy, thì tầu liền bị thêm một phát đạn nữa, tôi thấy bộ phận "transmission" truyền lực cho cánh quạt ở trên đầu bắt đầu chảy nhớt. Tôi báo cáo tình trạng cho anh Trọng biết, anh nói: "Bịt nó lại!!!", nhưng làm sao bịt được lỗ đó, vừa to lại vừa nóng. Anh Trọng tìm hướng đáp khẩn cấp, khi xuống tới đất, cỏ voi cao hơn cả máy bay. Anh Trọng từ trên "cockpit" cao nhảy xuống và chạy rất nhẹ nhàng (hình như anh có võ thì phải), còn anh Sâm nhảy xuống vội chụp cây đại liên và kêu tôi ôm giây đạn chạy theo anh. Thật là khó chạy vì cỏ rất dầy và cao mà giây đạn thì có khía nên cứ giật người lại, lại còn nghe địch bắn theo cóc... cóc... cóc... và tiếng đạn bay trên đầu nghe rào... rào... rào... Anh Hiền bay trên theo dõi chúng tôi chạy và lao xuống rước. Trời ơi máy bay cao thế mà anh Trọng nhảy lên dễ dàng (đúng là anh có võ thật), còn tôi và anh Sâm leo lên mãi không được. Anh chàng "Medic" người Mỹ trên máy bay và thằng Năng bèn lôi tôi và anh Sâm lên. Anh Sâm lập tức nhảy đến bên hông cửa sổ rút súng "rouleau" ra chỉa xuống, thấy vậy tôi cũng bắt chước núp bên cửa sổ trên móc Colt 45 ra lên đạn và cũng chỉa xuống, nhưng khi lên đạn, cơ bẩm chạy ra giữa, thôi chết hết đạn rồi. Tôi quê quá tiu nghỉu ngồi xuồng ghế, thật là lính mới tò te. Sau đó Anh Thanh gọi khu trục đến oanh tạc phá hủy máy bay. Khi về đến Phi Ðoàn, Th/Tá Ðặng Văn Phước Phi Ðòan Trưởng và Ð/T Nguyễn Văn Khánh Không Ðoàn Trưởng ra bắt tay ba người về từ đỉnh núi, rồi thưởng mỗi người một ly rượu mạnh. Buổi chiều Th/Tá Phước dẫn toàn bộ Nhân Viên Phi Hành trong Phi Ðoàn ra nhà hàng Việt Nam bên bờ sông Hàn khoản đãi. Sáu tháng sau, ngày 31 tháng 12 năm 1968 tôi nhận được một huy chương Phi Dũng Bội Tinh với Cánh Chim Ðồng theo Quyết Ðịnh số 1108/TTM/TQT từ phi vụ này. Sau tai nạn này tôi được thăng cấp Hạ Sĩ kể từ ngày 09 tháng 08 năm 1968 do Quyết Ðịnh số 13903/PCHC ngày 26 tháng 11 năm 1968.

Tai nạn thứ hai đến với tôi ngày 30 tháng 11 năm 1968 khi đi bay với PHÐ anh Nguyễn Văn Minh và anh Hướng Văn Năm. Chúng tôi 4 chiếc King Bees do anh Huỳnh Văn Phố chỉ huy với các Trưởng Phi Cơ (TPC) 3 chiếc sau theo thứ tự anh Nguyễn Văn Minh, anh Tôn Thất Sinh, anh Nguyễn Kim Huờn. Trong lúc "stand by" tôi đi vào nhà vệ sinh, nói là nhà vệ sinh cho sang, nhưng thật ra chỉ có hai miếng gỗ bắc ngang thùng phuy để ngồi chồm hổm lên, phía dưới đựng dung dịch hóa học cho bớt hôi đi, chung quanh có mấy tấm ván che ngang vai lòi đầu ra ngòai. Tôi ngồi trút bầu tâm sự thì anh Năm vào phòng cầu kế bên, thò dầu ra nói chuyện với tôi. Hai anh em tâm sự nhiều. Anh Năm hỏi nhiều về gia đình tôi, tôi không ngờ đây là lần tâm sự cuối cùng của anh Năm. Ðang nói chuyện thì chợt nghe thấy tiếng H.34 sành... sạch... Ngoài đường, Anh Năm la lên: "Chết rồi! Bay! Bay!". Thế là hai anh em vội vàng ngưng việc vệ sinh, vội kéo áo bay lên, rồi thật lẹ làng phóng ra phía cổng. Anh Năm người dong dỏng cao và chay thật nhanh, thế là Phi Vụ bắt đầu.

Lượn một vòng 4 chiếc C H.34 lần lượt đáp xuống Phi Trường Cam Lộ, gọi là PT nhưng đây chỉ là một đường đất mới làm phẳng và hai bên còn đang đào cống rãnh ngổn ngang. Sau một lát "leader" vào Bộ Chỉ Huy (BCH) họp và lấy lệnh hành quân trở ra, các Trưởng Phi Cơ chụm nhau lại bàn tính, cuối cùng quyết định để Anh Tr/u Nguyễn Kim Huờn ở lại, chỉ có 3 chiếc đi thôi, vì đây là một phi vụ đặc biệt, thả một tù binh Bắc Việt về đơn vị gốc của họ, và phía Mỹ đã "contact" với địch quân, họ đã đồng ý sắp xếp vị trí đáp ở khu vực gần đường mòn 922 Hạ Lào. Anh Huờn ở lại theo yêu cầu của anh Minh (còn gọi là Minh Bánh Bèo). Khoảng 14 giờ ba chiếc H-34 lần lượt cất cánh và trong giây lát chỉ còn là những chấm nhỏ rồi mất hút tận chân trời... Còn lại ba thầy trò Huờn - Long (đen) - Mẫn, anh Huờn tâm sự: "Tôi là bạn thân của thằng Minh, vì tôi mới ra Phi Ðoàn có vài ngày, và đây cũng là phi vụ đầu tiên ở 219 nên thằng Minh nó không muốn tôi đi nên nó đã tình nguyện bay thế chỗ của tôi".

Cho tới khoảng 16 giờ 30, chúng tôi bắt đầu nghe tiếng H-34 và chỉ thấy có một chiếc bay về, mọi người giật mình và cảm thấy hoang mang, lúc đó mây bắt đầu xuống thấp, và chúng tọi cứ nghĩ là hai chiếc còn lại đang ở trên mây, nhưng chỉ có anh Phố đáp xuống, anh cho biết khi anh đáp xuống thả tù binh, hai chiếc H-34 của anh Minh & Sinh bay "air cover" ở trên trời. Vì anh Minh và anh Sinh bay vòng chờ quá xa LZ (Landing Zone - Bãi Ðáp), đi ra ngòai vùng ấn định, vì lý do bảo mật nên khu vực khác của địch quân không biết sự giao ước này, vì thế họ bắn phòng không lên và trúng phi cơ của anh Minh. Anh Phố nhìn thấy phi cơ anh Minh xịt khói trắng và đâm nhào xuống đất gẫy làm ba khúc, và chỉ trông thấy một nón trắng văng ra. Anh không nhận nghe một tín hiệu cấp cứu nào cả, ở dưới địch quân bắn lên như đan lưới. Biết không thể làm gì được, anh ra lệnh bay về, nhưng anh Sinh không chịu, nhất định ở lại tìm kiếm. Mọi người chờ đợi ở căn cứ Cam Lộ, thật là sốt ruột và lo lắng. Mãi đến 17 giờ 30, trời vừa hơi sẩm tối, chúng tôi mới nghe tiếng máy bay từ xa vẳng lại, nhưng vì mây phủ nên không thấy đâu cả. Anh Phố vội lên mở vô tuyến và liên lạc, thi thấy anh Sinh mờ mờ trong đám khói mây, vừa kịp chui xuống thì mây bít lại. Anh Sinh tỏ vẻ rất "upset" vì đã không cứu được PHÐ anh Minh, anh Năm.

Anh Sinh kể lại khi anh Minh bị bắn rớt, anh bay lượn nhiều vòng lúc xuống thấp, lúc lên cao, cố gắng xem có ai còn sống sót, ở dưới đạn bắn lên cứ như mưa, anh liên lạc vô tuyến cứ gọi rồi lại gọi xem anh Minh hoặc anh Năm có còn ai trả lời không, nhưng vẫn bặt vô ấn tín, cuối cùng thất vọng anh đành quay trở về. Nhưng khi trở về thì mây đã kéo ra bít kín, cứ thế anh cưỡi mây nhắm hướng trở về. Anh Sinh cũng may mắn thoát chết nhờ một lỗ hổng nhỏ chui xuống đáp, nếu không xăng đã gần cạn vì bay quá lâu tìm kiếm và mây phủ không thấy đất thì không biết sẽ như thế nào. Khi về tới Ðà Nẵng, anh Huờn vừa kịp ký "Circuit d'Arrivée" về Phi Ðòan 219 lại vội vã ký "Circuit de Départ", anh đi để tránh nỗi ám ảnh đau thương mà một người bạn vì thương anh đã thế chỗ cho anh, chắc hẳn anh còn phải nhớ mãi điều này.

Ðầu năm 1969, PHÐ Nguyễn Thanh Liêm, Bạch mạnh Hùng, Lợi bị bắn cháy máy bay tại vùng hành quân A Shau - A Lưới. Khi rơi xuống, anh Liêm và anh Hùng bị phỏng nhẹ, địch quân phát hiện máy bay rơi bèn đến ngay lập tức. Họ dùng mã tấu phát cỏ để truy tìm. Mevo Nguyễn Văn Lợi chạy một nẻo, hai Pilots chạy một nẻo. Hai anh bị mã tấu phát cỏ ngang đầu, cố nằm rạp xuống để tránh bị phát hiện, vì cỏ cao và dày nên địch quân không tìm được, chỉ nghe họ chửi đổng: "Mẹ bố nó! Mới rơi đây mà chúng nó đã chạy đâu mất rồi!". Rồi họ cũng sợ bị phát hiện và bị máy bay oanh kích, nên bỏ đi ngay. Cũng chính vì điều này khi máy bay vòng chờ suốt buổi sáng cho đến trưa để tìm hai anh mà không thấy, mãi mới đón được hai anh "pilots", nhưng vẫn chưa thấy Mevo Lợi đâu cả. Cho đến gần xế chiều mới tìm ra Mevo Lợi. Sau chuyến này hai "pilots" được đưa về nằm bệnh viện dưỡng thương, rồi sau đó về Bộ Tư Lệnh Không Quân nhận nhiệm vụ mới, còn Mevo Lợi được nghỉ phép vài ngày để ổn định tinh thần vì không bị thương. Nhưng Mevo Lợi đã đi phép đến vài tháng, sau phải rời Phi Ðoàn.

Tháng 3 năm 1969, PHÐ Nguyễn Văn Du - Lê Long Sơn - Hồ Ðắc Bình bị bắn rơi gần đỉnh "Leghorn", một căn cứ truyền tin điện tử bí mật đặt trên đỉnh núi cheo leo, rất khó tấn công nằm trên đất Lào phía Ðông cao nguyên Bolovens, ngó xuống trục lộ chính của hệ thống Ðường Mòn HCM. Bị địch quân đuổi bắt, anh Du chạy và bị bắn chết, còn anh Sơn (Sơn đen), và Mevo Bình bị bắt. Họ sợ hai người này chạy nên bắt cởi bỏ giầy đi chân không, trời ơi đau vô cùng. Chuyến này Anh Trần Văn Phước (Phước Ðạo Dừa) làm "leader".

Ngày 4 tháng 4 năm 1969, PHÐ Tôn Thất Sinh - Vũ Tùng - Phương nhận phi vụ vào tiếp tế cho một Team ở Ngã Ba Biên Giới qua khỏi Leghorn. Tin tình báo cho biết địch quân rất đông nằm chắn ngang đường bay, vì thế chỉ có một đường vào là phải bay vòng qua một dãy núi rất xa mới đáp tiếp tế được. Khi tiếp tế xong, anh Sinh quyết định bay thẳng không đi vòng nữa, khi bay ngang nơi địch quân như đã được báo, ở dưới bắn phòng không lên như mưa, cuối cùng anh báo trên vô tuyến: "Tao bị thương rồi", và máy bay anh đâm nhào xuống đất, cháy ngay lập tức. Hỏa lực địch quân rất mạnh không thể nào tiến sát chỗ anh rơi được, phải chờ cho đến khi phi tuần khu trục phản lực F4 Phantom của Mỹ đến giải tỏa bớt được hỏa lực địch, các máy bay đi cứu cũng chỉ bay lại gần thôi, vì hỏa lực địch quân vẫn chống trả, trên cao quan sát thấy máy bay của anh chỉ còn lại phần động cơ phía trước như cái cùi bắp, còn lại hoàn toàn cháy rụi.

Tháng 5 năm 1969, PHÐ Trần Văn Phước (Ðạo Dừa) - Copilot ? - Trần Tuấn Năng thả "team" gần Leghorn khi đáp xuống bị bắn, Mevo Năng bi thương nơi cánh tay và bàn tay trái, may mắn một viên đạn trợt ngang mắt kinh Rayban làm gãy gọng, nhưng nhờ vậy nên viên đạn trợt ra ngoài, Năng được giải ngũ từ dạo đó. Trong thời gian này, những phi công Hoa Kỳ của Phi Ðoàn Trực Thăng Võ Trang Cobra 361 PINK PANTHER đi theo hộ tống (escort) yểm trợ hỏa lực đã chứng kiến tận mắt, nên đã hết lời tán dương Phi Ðoàn 219 KINGBEE và Ð/U Trần Văn Phước trong bài viết trên tạp chí HAWK của Không Lực Lục Quân Hoa Kỳ (Army Aviation).

Tháng 5 năm 1969, PHÐ Crossman - Thái - Toàn bị tai nạn ở vùng Bạch Mã. Major Crossman là một phi công phản lực của KQ/HK, ông không rành về bay trực thăng, nhưng khi về làm cố vấn Phi Ðoàn 219, ông được các Anh Huấn Luyện Viên tập bay. Ông rất thông minh nên tiếp thụ rất nhanh, sau một thời gian gần một năm trời, ông bay tập chuyên cần và đã ra được Trưởng Phi Cơ. Ông bay vững, và phải nói ông là người rất tốt, và có đạo đức, được mọi người quý mến và nhớ mãi. Th/u Thái cũng vừa về Phi Ðoàn chưa bao lâu, và đến Mevo Tr/s I Toản, cũng vừa chân ướt chân ráo từ Phi Ðoàn 215 ra. Nhân có một phi vụ rước "Team Local", ông Crossman muốn đi thử một chuyến, nhưng khi nhận được chi tiết và địa điểm ở Núi Bạch Mã thì anh Nghĩa và anh Phố khuyên ông không nên đi vì vùng này gió xoáy và "turbulence" đánh dữ lắm. Nhưng ông Crossman cứ khăng khăng đòi đi, đúng như dự đoán khi ông bay đến nơi vừa "hover" để Mevo Toản thả thang giây xuống cho "team" leo lên, thì "turbulence" đánh dữ dội. Ông không còn điều khiển phi cơ được, phi cơ bị gió hút xuống, ịn ngay tại chỗ. Mevo Toản vì mới ra Phi Ðoàn nghe nói là đi hành quân thường bị bắn, nhưng anh cũng không biết đây là "team local" ít đụng địch, nên anh không đứng mà nằm xuống sàn tàu, khi tầu đập xuống đất anh bị dập ngực xuông sàn và chết ngay. Sau đó Phi Ðoàn yêu cầu Không Quân Hoa Kỳ mang máy bay CH-53 Jolly Green, loại này rất mạnh và to lớn hơn H-34, đến lấy hai "Pilots và Team" ra. Khi chiếc CH-53 đến nơi, họ "hover" thả "hoist" (máy thả giây) xuống kéo từng người một lên, ông Crossman nhường cho Th/u Thái lên trước nhưng khi "hoist" kéo anh Thái gần lên đến máy bay thì chiếc CH.53 này cũng không chịu nổi gió xoáy nên cũng bị rớt xuống ngay, thật không may cho anh Thái, phi cơ rơi xuống và đè chết anh. Lúc đó buộc lòng Major Crossman phải theo "Team" đi đường bộ về, sau này ông Crossman rất ân hận vì đã không nghe lời anh Phố, ông xin về nước với nỗi ân hận khôn nguôi.
Tiếp theo bay trong lữa đạn Kỳ 2

Bay Trong Lữa Đạn (Kỳ 2 - Tiếp theo)


Ký ức chiến trườngTruyện nhiều kỳ
Bay trong lửa đạn
(Kỳ 2 - tiếp theo)
KingBeeMan & Lãng Tử
Năm 1968 qua đi với những biến động trên chiến trường như trận Khe Sanh, Làng Vei, A Shau, A Lưới, Tà Bạt, Dak Pek, Dak Saeng, Benn Het, Plei Jeireng, Bu Prang, Snoul v.v... và nhất là cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân làm thay đổi nội tình nước Mỹ. Tổng Thống Nixon đã đắc cử với lời hứa rút ra khỏi VN và bắt đầu chương trình Việt nam hóa chiến tranh, nhưng những cuộc biểu tình phản chiến một ngày một gia tăng. Tại Hội Ðàm Paris, hai bên vẫn kiếm cách kéo dài thời gian để tìm chiến thắng nơi mặt trận để có thể điều đình trong thế mạnh. Do đó trên bàn hội nghị ai cũng nói tới hòa bình, nhưng trên chiến trường cường độ càng ngày càng dữ dội hơn. Và cứ như thế, chúng tôi tiếp tục bay trong lữa đạn dọc theo Ðường Mòn Hồ Chí Minh, và tôi tiếp tục chứng kiến những sự chiến đấu anh dũng của các anh em đồng đội cũng như ngậm ngùi nhìn những anh em không may mắn ra đi.
Tôi còn nhớ lần đó tôi theo PHÐ Tưởng - Thu biệt phái lên Kontum và máy bay quan sát đã tìm thấy một Team mất tích hơn 6 tháng trời, theo tín hiệu (signal) thì hoàn toàn không đúng, nhưng theo một vài nhận định thì họ là những Team bị mất liên lạc, trưởng
trại B.15 và Trung tá Hoa Kỳ tại đây yêu cầu Anh Tưởng thử bay lên tìm hiểu nếu có thể đón được thì đón, đồng thời trong khi đó điện từ Nha Kỹ Thuật do Ðại Tá Ðoàn Văn Nu chỉ thị là bằng mọi giá phải rước họ. Lúc đó trời đã vào chiều, anh Tưởng bay lên vòng qua lại LZ nhiều vòng và trời một lúc một tối dần mà LZ lại vào vị trí nửa đường từ B.15 đến sông Mekong. Anh Tưởng quyết định xuống thấp nếu nếu họ không có phản ứng tất nhiên không phải địch quân, khi xuống thấp và bay từ từ xem phản ứng, thấy họ bật hộp quẹt Zippo tôi yên chí. Anh Tưởng nói: "Mẫn ơi, nếu chú thấy họ có động tịnh gì là chơi liền nghe không", rồi anh đáp xuống, ba troops nhảy ngay lên tàu ra vẻ mừng rỡ, anh Thu nói vói xuống: "Mẫn ơi coi chừng họ bóp cổ chú đó", tôi trả lời: "Em nhận ra họ rồi". Anh Thu đùa thêm: "Ừ nó bóp cổ bây giờ đó", rồi anh cười khà khà. Tôi đưa cho họ bao thuốc con mèo nhỏ 10 điếu, họ mừng rỡ vì từ lâu không còn thuốc lá, họ rít thuốc mà thấy tội nghiệp. Tôi còn nhớ những người này lần đi thả trước, họ đi 5 người trong đó có hai người bản xứ Lào, họ mang theo tiền ba loại Lào, Cam Bốt, và tiền Cụ Hồ. Khi xuống tới nơi họ chôn trong rừng trong những thùng nhựa màu đen. Hai người Lào, sau khi về tới làng của họ, bèn làm phản và ba người còn lại phải chạy thục mạng bơi qua sông Mékong bỏ luôn máy truyền tin 74 khi bơi qua sông và từ đó họ mất liên lạc, khi hết lương thực họ phải dùng lá cây lá non có màu đỏ là dùng được còn vài bịch hành và cà rốt khô trong P.I.R họ ngậm từ từ để lấy hương và cầm hơi, họ nói nếu máy bay không đón thì họ sẽ phải lội bộ về.
Ngày 01 Tháng 6 năm 1969, PHÐ Khúc - CoPilot? - Vững nhận một phi vụ thả Team Local ở Quảng Ngãi. Phi cơ đáp xuống ruộng quá nhanh biến thành Forced Landing, và Flare đuôi đập mạnh xuống đất, tàu xốc mạnh tưng lên, giá súng không "locked" lại nên súng Ðại Liên đập mạnh vào mặt Hà Khắc Vững. Anh đã chết ngay sau đó.
Trong những ngày tháng này có một lần tôi đi bay với anh Xuân, anh An bay leader ở Kontum. Chúng tôi đi rước toán, anh Xuân có dặn tôi là bãi đáp hơi "slope" và cây cối chung quanh lại cao. Team đã dùng cưa máy cưa trống làm bãi đáp, và họ cắt còn gốc hơi cao, vậy khi Anh đáp Em nhớ Clear thật kỹ nhé. Khi đến LZ Anh Xuân xuống rất nhanh, và cây chung quanh có cao thật, anh "flare" mũi tàu ngổng lên, đuôi thấp xuống. Tôi la lên coi chừng cây và nghe bộp... bộp... bộp... rồi xong, anh đã chặt cây mất rồi, máy bay đáp xuống đuôi rung dữ dội, anh Xuân nói để anh cất cánh lấy "airspeed" thử coi. Nhưng vừa dở lên thân máy bay quay một vòng anh Xuân vội ịn xuống mặt đất, trời ơi máy bay chỉ nhích lên một chút xíu thôi là cây nó đội lên ghế Mevo là người tôi sẽ bị đẩy lên đụng ghế Pilot làm cho toàn thân thun lại và đầu chắc phải chui vào ngực của mình mà trốn thôi, nhưng thật là may cây nó lại đội lên trước mặt, tôi phải dạng chân ra, và đúng là may thật vì chính nhờ gốc cây này đã kềm máy bay lại, làm cho nó không bị lật, và không bị ngẫu lực xoắn làm máy bay xoay tròn theo trục quay. Thật là hú hồn lúc bấy giờ tôi hết biết làm gì nữa cả, ngay khi đó anh Nguyễn Quý An bay ở phía trên, muốn xuống nhưng không có chỗ nào để đáp, cuối cùng Anh quyết định đáp trên "rotor head" để một bánh trên bầu tròn tròn chính giữa "main rotor", và lúc bấy giờ tôi rất lúng túng, một tay cầm "form" ghi tình trạng máy bay, và bình chữa lửa, còn tay kia ôm súng đại liên 30, trong lúc đó Ông Già Tưởng thả "hoist" xuống, nhưng hai tay tôi không rảnh thì làm thế nào đây? Ông Già Tưởng rút "hoist" lên và leo xuông la lên: "Liệng hết đi thằng cù lần!". Thế là tôi quăng sạch. Ông Già Tưởng chỉ vào cây súng bảo tôi lượm lại và đưa lên cho ông, trong khi đó anh Xuân và anh Yên Râu đã leo lên và vào máy bay rồi. Tôi lúc bấy giờ mới leo lên Cockpit chỗ hai phi công ngồi lái. (Câu chuyện này không biết anh An và anh Xuân còn nhớ không?)
Khoảng 10 ngày sau tai nạn của Anh Hà Khắc Vững, PÐ 219 chịu một thiệt hại thật là nặng nề với hai PHÐ An - Khải - Tưởng và Trung - Kiệt - Ðức bị bắn rớt vùng mật khu 609 gần cao nguyên Bolovens bên Lào. Sáng hôm đó Trưởng Trại B15 và Th/T Chỉ Huy phía Hoa Kỳ yêu cầu Biệt Ðội 219 biệt phái tại KonTum bay đủ 6 chiếc trực thăng lên Dakto trực và sẽ đón Ðại Ðội Biệt Kích trở về. 8 giờ sáng lần lượt 6 chiếc CH.34 xuất hiện từ hướng Tân Cảnh đáp chạy "rolling" trên runway rồi vào "parking" phía trái của phi đạo, Hai bên phi đạo Dakto lúc này có những ống cống bằng tôn dợn sóng mái vòm đặt rải rác khắp nơi và một vài công sự phòng thủ bỏ hoang. Các TPC vào lều chỉ huy để nghe "briefing" trong khi đó thì đại đội đang đụng đầu mạnh với địch quân, và họ báo cáo về cho biết quân địch chỉ toàn những chàng trai trẻ và như say thuốc, nên họ đánh không biết sợ, và bám rất sát quân ta, vì vậy Ðại đội Biệt Kích yêu cầu Trực Thăng khoan vào đón, để cho tình hình lắng dịu. Mãi cho đến khoảng 10 giờ thì Kingbees mới được lệnh lên vùng, LZ nằm ở vị trí phía Tây của Leghorn, một đồi thấp nắm gần một khe suối.

Khi Anh An vào đáp thì địch quân bắn lên dữ dội, Anh cố gắng đón được một toán thì chiếc thứ nhì tiếp tục vào. Chiếc này bị bắn rơi ngay tại chỗ (không nhớ PHÐ này là ai), anh An quay lai đón ngay PHÐ bi rơi và quay trở về, trong lúc đó địch quân đã nắm được tọa độ đáp của trực thăng, vì vậy chiếc tàu bay thứ ba do anh Trung lái vừa đáp xuống thì địch quân đã pháo vào trúng ngay Cockpit phía bên trái chỗ anh Thái Anh Kiệt ngồi ghế copilot. Anh Kiệt trực tiếp hứng viên đạn, anh Trung nhảy xuống khỏi máy bay chạy vào công sự phòng thủ của ÐÐ/BK. Trong khi đó Mevo Trần văn Ðức chưa biết Th/u Kiệt bị trúng đạn đứng ở dưới nắm chân Th/u Kiệt mà lắc: "Anh Kiệt xuống, Anh Kiệt!", không nghe trả lời Ðức đẩy ghế Pilot chui lên. Thật là kinh hoàng, Th/u Kiệt mất một vai trái và đầu văng đi đâu mất, những giây điện trên cockpit bị đứt và cuốn ngang cổ Th/u Kiệt, cộng thêm máu thấm vào trông như những sợi gân đong đưa trên cổ, Mevo Ðức vội vàng tụt xuống và chạy vào công sự. Một lát sau địch quân pháo thêm lần nữa máy bay bị cháy và lần này thì Th/u Thái Anh Kiệt vĩnh viễn không thể về với gia đình và đồng đội được nữa dù chỉ là hài cốt. Anh đã hy sinh thật anh dũng để lại sau lưng bao nhiêu bạn bè đồng đội và người thân một nỗi xót thương đau đớn vô vàn và từ đó chiến tranh đã chấm dứt với Anh như câu nói của một nhà văn: " ONLY THE DEADS HAVE SEEN THE END OF WAR", tiếp sau đó Anh An nhiều lần xuống đáp nhưng đều gặp sự chống trả mănh liệt của địch quân, không làm thế nào vào được cả, đành phải quay về để tính kế khác. Khi về đến Dakto anh được nghe qua máy truyền tin của một "radio man" khuyên anh không nên vô, để ÐÐ/BK tìm cách di chuyển ra hướng khác ngoài tầm pháo kích của địch quân, nhưng anh ta nói thêm một câu, tuy vây nhưng tùy Leader định liệu. Anh An cứ suy tính mãi, và đi đến quyết định, không thể để PHÐ nằm lại qua đêm trong LZ được, rồi Anh nghĩ, có lẽ phải lợi dụng lúc trời tối trong khi đó địch quân sửa soạn dùng cơm và không ngờ máy bay lại đáp ban đêm. Quả là anh định liệu như thần, anh liên lạc trước với PHÐ ở dưới cho biết đúng 19 giờ anh cất cánh bay thẳng đến LZ, vừa đến nơi anh lao thẳng xuống không cần đánh vòng bật "landing light" là đáp ngay, địch quân không kịp trở tay, khi cất cánh địch quân mới định thần bắn vói theo nhưng không kịp nữa rồi, anh đã lên cao và qua khỏi tầm bắn.
Qua ngày hôm sau "mission" vẫn còn tiếp tục, và máy bay chỉ còn lại bốn chiếc, buổi sáng khi lên đến nơi, anh An quyết định lên hai chiếc là anh và anh Xuân cùng với hai chiếc gunship và một chiềc O2 quan sát vì anh cũng muốn sử dụng kế bất ngờ để đáp vào LZ Anh nhanh nhẹn đáp xuống, nhưng địch quân cũng đã chuẩn bị trước rồi sau bài học hôm qua. Khi Anh vừa đáp xuống thì bị pháo ngay vào động cơ máy bay nổ tung ngay lập tức, Anh Nguyễn Quý An và copilot Dương Văn Khải chạy kịp lên đồi vào công sự, trong lúc đó vì bị dằn mạnh ông Mevo Già Ch/u Phan Văn Tưởng bị thương nơi chân, khi chui được ra khỏi máy bay, thì bị main blade còn quay chậm đập vào đùi và mông làm ông bị gãy chân, Trong lúc đó tôi đi với Anh Phạm Ngọc Xuân đang bay "cover" ở trên cao, khi máy bay vừa rơi xuống anh Xuân vội liên lạc ngay: "An, nghe không An?" rồi anh lại tiếp tục: "An, nghe không An?", cứ như thế rất nhiều lần, sau cùng anh la lên một tiếng than rằng: "Chết hết rồi!", thật là não lòng. Giọng của anh đã làm cả tôi lẫn anh Yên bật nước mắt, không khí bi quan bao trùm cả bầu trời, cuối cùng cũng nghe được giọng anh An trong vô tuyến, anh ra lệnh không được đáp, vì lúc này địch đang tấn công và bắn nhau dữ dội, anh Xuân và tất cả các PHÐ khác phải quay về chờ lệnh và tiếp thêm nhiên liệu, sau đó liên lạc về Phi Ðoàn ở Ðà Nẵng, lập tức tất cả các Bộ Tham Mưu Phi Ðoàn vội vàng lên đường bay thẳng lên Dakto, gồm có Th/T CHT Ðặng Văn Phước, TH/Tá CHP Trần Văn Luân, Ð/U Trưởng Phòng Hành Quân Nguyễn Hữu Lộc và Ð/U Flight Leader Nguyễn Văn Tưởng. Khi phái đoàn bay lên đến nơi cũng chỉ là thị sát thôi vì tình huống lúc bấy giờ không cho phép một chiếc nào xuống nữa cả, mặc dù Ông Già Tưởng bị thương nặng không đi được, và cuối cùng anh An điện về cho hay là Team sẽ phải di chuyển vì lúc này hai bên đang đụng độ khốc liệt. Nước dọc theo con suối nhỏ bây giờ chuyển sang màu đỏ, vì người chết quá nhiều dọc theo hai bên bờ suối và không thể uống được nước này nữa, chính vì vậy PHÐ của Anh phải theo Team di chuyển và Ông Già Tưởng sẽ có một số Anh Em Team thay phiên kéo ông đi. Họ dùng hai cây rừng và buộc cái mền hoặc cái poncho cho ông nằm trên đó và một người kéo ông đi, và cứ như vậy các PHÐ ở Dakto thấp thỏm chờ đợi mãi cho đến chiều mới được tin từ máy vô tuyến báo về là họ đã di chuyển được xa vùng địch quân và đang tìm bãi để trực thăng có thể đáp được. Rồi cuối cùng tin báo cho biết LZ đã sẵn sàng. Và PHÐ của anh An cũng đã được đón về, chấm dứt nỗi đau đớn xé thịt mà Ông Già Tưởng phải chịu đựng trong suốt đoạn đường di chuyển vì bị kéo lê nhiều cây số đường rừng. Sau vụ này, Ông Già Tưởng được giải ngũ với cái chân bị thương tật. 



Lãng Tử   &   KingbeeMan

Bay trong lữa đạn tiếp theo và hết

Bay Trong Lữa Đạn (Tiếp theo & hết)


 Ký ức chiến trườngTruyện nhiều kỳ
Bay trong lửa đạn
(Tiếp theo & hết)
KingBeeMan & Lãng Tử

Năm 1969 qua đi với nhiều đổi thay. Bên Hoa Kỳ, Tổng thống Nixon đã thắng cử và nhậm chức Tổng thống từ đầu năm 1969, và bắt đầu chương trình Việt Nam hóa chiến tranh, để xoa dịu phong trào phản chiến trong nước Mỹ.
Về mặt chính trị, hòa đàm Paris vẫn cù cưa sau hơn một năm chưa qua khỏi giai đọan sơ khởi tranh luận về hình thể bàn họp hình tròn hay hình vuông. Trong khi đó ngoài chiến trường, binh lính hai bên vẫn tiếp tục ngã xuống để các nhà ngoại giao trong bàn họp có thể nói trong thế mạnh, một thủ đọan đàm phán được mệnh danh là "vừa đánh vừa đàm".
Mức họat động của Bắc quân trên đường mòn Hồ Chí Minh gia tăng mãnh liệt. Hà Nội đưa quân bổ xung và đồ tiếp liệu khởi đi từ miền Bắc qua cầu Hàm Rồng vào miền Trung để đến Ðèo Mụ Già, điểm xuất phát của đường mòn Hồ Chí Minh vào Lào Quốc. Ðoàn quân này sẽ đi theo lộ trình cả ngàn cây số để xâm nhập vào miền Nam qua ba ngõ chính: Ðường 9 Nam Lào qua Khe Sanh, Tà Bạt, A Shau, A Lưới để vào vùng I Chiến Thuật; ngõ thứ hai là từ vùng Ba Biên Giới đi vào Cao Nguyên Trung Phần qua ngã Ben Het, Daktô để vào Kontum, Pleiku của Vùng II Chiến Thuật; và ngõ thứ ba để vào Vùng III Chiến Thuật là đường mòn Bù Gia Mập. Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R) đầu não chính trị và quân sự của Cộng quân điều khiển chiến trường miền Nam thường xuyên di động trong vùng Ðông Bắc Cao Miên sát biên giới Miên-Việt trong các tỉnh Tung Streng, Mondol Kiri, Snoul, Kratié. Do đó Phi Ðoàn 219 được lệnh phải thành lập thêm hai biệt đội cho hai căn cứ xuất phát mới là Ban Mê Thuột và Quản Lợi (Bình Long) để đáp ứng nhu cầu chiến trường.
Những năm hoạt động tại biên giới vùng I, chúng tôi làm việc chung với các phi công trực thăng võ trang của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, một đơn vị rất tinh nhuệ và có truyền thống gan dạ của Quân Ðội Mỹ, họ nổi tiếng trong Thế Chiến Thứ II tại chiến trường Thái Bình Dương qua các trận lừng danh như Saipan, Okinawa v.v... Các phi công của Phi Ðoàn Scarface (Mặt Thẹo) rất gan dạ, họ lấy biểu hiệu cho PÐ này là "hover cover" (bay đứng một chỗ để bắn yểm trợ). Nhưng họ đã phải nghiêng mình bái phục trước hành động quả cảm của "An Cào Cào" như trong bài trích dưới đây của Mike Brokovich trong hồi ký "A Few Good Men" kể lại một cuộc hành quân phối hợp giữa King Bees và Scarface về trường hợp một chiếc "gunship" của Scarface bị bắn rơi trong một cuộc hành quân bên Lào:
" ...Chiếc trực thăng võ trang UH-1B của TQLC Mỹ bị bắn trúng, bốc cháy và rơi xuống dòng sông. An đang bay, chiếc King Bee H-34 bèn nhào xuống vớt được Thiếu tá Hill và Hạ sĩ Dean đang trôi trên sông cách chỗ máy bay rớt 100 thước, rồi giao lại cho một chiếc UH khác của Hoa Kỳ, sau đó An không cần bay lên cao, cứ là là bay ngược lại chiếc phi cơ đang cháy để tìm hai người còn lại là Ron Janousek và Bruce Kane, hai bên sông, địch quân bắn theo như mưa. An bay đứng tại chỗ trên chiếc phi cơ đang cháy, thò đầu ra ngoài cửa sổ ngó tìm. Rồi An đưa chiếc bánh đáp của H-34 móc vào càng chiếc UH-1B đang cháy kéo lên để nhìn vào trong xem có ai còn sống bị kẹt trong đó không? Trong khi đó lợi dụng chiếc H-34 bay đứng một chỗ địch quân lại càng bắn mãnh liệt hơn. Nhưng An không thấy có ai trong đó cả, khi đó An mới bay lên. Chúng tôi không tin ở mắt mình khi thấy An làm vậy vì ngoài việc bị địch quân bắn xối xả, chiếc H-34 có thể bị dính vào chiếc phi cơ bị nạn và bốc cháy theo. Ðây là một trường hợp trong nhiều trường hợp về những hành vi anh dũng của An nói riêng và của các phi công King Bees nói chung".
Các phi công Panthers trực thăng võ trang Cobra của Lục Quân Mỹ làm việc chung với King Bees ở vùng II và phi công Green Hornets của Không Quân Hoa Kỳ bay trực thăng võ trang UH-1N ở vùng III cũng đều có những nhận xét tương tự về các phi công King Bees. Sau hơn 20 năm, gần đây Tổng thống Hoa Kỳ đã ký một bản tuyên dương PÐ 219, và gửi tới Thiếu tá Nguyễn Quí An (An Cào Cào) hiện cư ngụ tại San José, California. An bị bắn cháy trên trời tháng 9 năm 1970, nhưng vẫn điều khiển được chiếc H-34 đáp khẩn cấp và thoát ra trước khi phi cơ nổ. Nhưng hai tay anh bị cháy quá nặng, nên bị cưa, và An được giải ngũ. Sau năm 1975, T/T An bị kẹt lại và vì khuyết tật nên không bị cải tạo lâu, cho nên khi phong trào HO cho các SQ có ít nhất 3 năm tù cải tao qua tỵ nạn thì T/T An không thuộc diện này. Nhưng những quân nhân Mỹ ngày trước được An cứu, ngày nay có nhiều người ra làm chính trị trở nên Thượng Nghị sĩ và Dân biểu Liên Bang. Họ đã tìm cách đưa T/T An qua Hoa Kỳ chữa bệnh, và đệ nạp môt sắc luật đặc biệt lên Quốc Hội để T/T An trở thành thường trú nhân, và T/T An đã có thẻ xanh với nỗ lực của cộng đồng VN (10 ngàn chữ ký) và của các người bạn Hoa Kỳ còn nhớ tới ân tình ngày trước.
Những phi vụ biệt kích được coi là nguy hiểm vì luôn luôn phải đi sâu vào lòng đất địch với hỏa lực yểm trợ tối thiểu. Các phi công bị bắn rớt, nếu không được cứu liền để qua ngày hôm sau thì sẽ không còn nhiều cơ hội để cứu nữa. Ngoài ra, một kẻ thù nguy hiểm hơn thế nữa là thời tiết. Rặng Trường Sơn phân chia biên giới Việt Lào, nhưng cũng là nơi phân chia biên giới sống và chết của các phi công tài ba. Mùa mưa gió Nồm thổi từ phía Nam lên mang theo mưa giông và mây mù che phũ đường về. Thời tiết có thể tương đối còn tốt trên đường xuất phát vượt rặng Trường Sơn qua phía Tây,nhưng khi hoàn tất phi vụ trở về phía Ðông Trường Sơn, mây đã bít kín đường về. Núi non chập chùng không có "radar" hướng dẫn, bay trong mây như hiệp sĩ mù nghe gió kiếm, nhiều khi xuống sát ngọn cây mới thấy đất, hú hồn thấy mình còn sống. "Hùng Râu Kẽm" đã mất tích không tìm thấy xác trong trường hợp này khi báo cáo lần cuối là chỉ còn 15 phút nữa là đáp. Trong năm 1970, PÐ 219 bị thiệt hại nặng nề khi hai PHÐ số 1 và số 2 của một phi tuần 3 chiếc bị thiệt mạng vì thời tiết xấu tại vùng Kontum. Ðây là nột kỷ niệm trong đời mà tôi sẽ không bao giờ quên được.
Ngày 11 tháng 05 năm 1970, Biệt Ðội 219 làm việc tại B.15 Kontum chỉ có 4 PHÐ gồm có Flight Leader là anh Nguyễn Văn Tưởng và Trưởng phi cơ 3 chiếc còn lại là anh Ngô Viết Vượng & anh Ðặng Văn Cung đều là I.P. (Instructor Pilot) của Phi Ðoàn, còn anh Trần Văn Long lúc đó vừa mới ra Hoa Tiêu Chánh. Vì chỉ có 4 Crews và đến 3 người là I.P. nên anh Tưởng chi cho mỗi ngày bay 3 Crews để anh em còn có thời gian nghỉ ngơi. Hàng ngày, 3 PHÐ bay lên Ðức Cơ trực ở đó, thời gian này chiến trường Cambốt đang sôi động với cuộc hành quân vượt biên đánh qua Miên để tảo thanh an toàn khu Lưỡi Câu và Mỏ Vẹt của Cộng quân do Ðại tướng Ðỗ Cao Trí chỉ huy. Tổng Tham Mưu ra lệnh Phi Ðoàn đưa một Biệt Ðội từ Ðà Nẵng vào nằm chờ lệnh tại trại Biệt Kích Quyết Thắng để thi hành phi vụ mật vào Nam Vang, để nếu cần yểm trợ Tướng Lon Nol mới đảo chánh nhà vua Cao Miên Sihanouk.
Sáng sớm ngày 11 tháng 05 năm 1970, anh Tưởng đến phiên được nghỉ, còn lại ba Phi Hành Ðoàn làm việc sửa soạn lên đường bay lên Ðức Cơ. Lúc này vì là mùa mưa nên trời ẩm thấp mây mù lất phất chưa tan mặc dù đã hơn 8 giờ sáng, ba chiếc lần lượt cất cánh bay thẳng về hướng Ðức Cơ, khi gần đến làng Toumorong trời bắt đầu mưa, anh Cung yêu cầu tất cả bay lên cao để có thể tránh mưa ở dưới thấp. Trời mỗi lúc lại càng mưa lớn hơn, mây mù khắp nơi, càng lên cao trời càng đen. Anh Trần văn Long biết tài năng của mình có giới hạn nên gọi vô tuyến VHF báo cáo trưởng đoàn là anh Vượng xin quay trở về. Anh Vượng đồng ý và nói nếu anh Cung muốn về thì dẫn anh Long về. Anh Long được lệnh bèn hạ thấp xuống bay về, trong phi cơ này tôi bay cơ phi với anh Long. Nhưng anh Cung không về.
Anh Long cho phi cơ xuống nhưng mây mưa càng lúc càng nhiều, không thấy đâu là trời đất cả, và bất thình lình tôi trông thấy những thửa ruộng vuông vuông phía dưới càng lúc càng dâng lên. Tôi vội la lên: "Coi chừng tới đất!". Anh Long vội kéo phi cơ khựng lại, vừa chấm mái nhà của người Thượng tại đây. Trời vẫn còn mưa như trút, anh Long phải vừa bay vừa Hover từ từ quay về KonTum, trong khi đó, trên vô tuyến của máy bay tôi nghe được giọng của anh Cung nhắc nhở: " Qua trái! Núi!... Qua phải! Núi!", rồi một lát sau tôi nghe tiếp cũng giọng của anh Cung: "Vượng ơi! Ði như vậy là giết hết anh em rồi!". Và đó là tiếng nói cuối cùng của anh mà tôi đã được nghe.
Nói về anh Long sau đó gọi nhiều lần cho anh Vượng và anh Cung nhưng không nghe ai trả lời cả, anh vội vàng lầm lũi bay về, nhưng thật tình không biết tâm trạng anh lúc đó như thế nào, chỉ có anh Yên là có thể đoán được thôi, vì anh Yên ngồi kế bên, còn tôi thì không nghe anh nói gì cả. Khi bay về tới KonTum, anh bay thẳng ra phố và cứ thế vòng vòng chung quanh phố chính đường Lê Thánh Tôn nhiều vòng xong anh quay về đáp xuống Parking B.15, chờ một lát thì qủa thật PHÐ anh Tưởng vội vã quay về trại. Anh chạy ngay ra "parking" hỏi: "Chuyện gì vậy Long?" Anh Long mếu máo: "Anh Vượng & Cung bay vô mây và không liên lạc được!" Anh Tưởng nói: " Chắc tụi nó bay tới Ðức Cơ rồi chứ gì?". Rồi anh Tưởng lên máy bay không mở máy mà chỉ mở vô tuyến gọi thử cũng không nghe trả lời, anh Tưởng vội vào Bộ Chỉ Huy của Chiến Ðoàn nhờ gọi thẳng lên Ðức Cơ hỏi xem hai chiếc đã đáp chưa, và được biết chưa có chiếc nào đến Ðức Cơ cả. Bấy giờ anh mới hoảng chạy thẳng ra phi cơ mở máy và tiếp tục gọi. Trời bắt đầu sáng và nắng bắt đầu tỏa xuống vạn vật, Anh Tưởng và anh Long mỗi người một chiếc bay lên và thi nhau gọi: "Vượng nghe không Vượng? Cung nghe không Cung? " và cứ thế hai anh thi nhau gọi, sau đó anh Tưởng gọi về phi trường Cù Hanh ( PleiKu ) hỏi xem có chiếc nào đáp không, nhưng ở đó họ cũng trả lời không thấy, rồi anh Tưởng hỏi các đài không lưu ở khắp nơi, nơi nào có thể liên lạc được anh đều hỏi, nhưng vô vọng không ai phát hiện thấy hai chiếc TT này cả. Hai anh cứ tiếp tục hỏi và bay vòng trên núi cao ngăn đôi giữa KonTum và Ðức Cơ , nói rõ hơn dãy núi này ngăn cách giữa làng Toumorong và làng Plei Jereng (Ðồn của LL.ÐB gọi là Lệ Minh) và cứ thế mà bay vòng cho đến trưa. Khoảng gần 12 giờ, đang bay trên đỉnh núi thì bất chợt tôi nhận thấy có một vài nhánh cây mới gẫy trên ngọn và còn tươi, Tôi vội báo ngay cho anh Long: "Anh Long ơi! Hướng ba giờ có nhánh cây bị gẫy". Anh Long hỏi ngay: "Ðâu đâu?", và lập tức anh quay lại và anh bay từ từ theo dấu nhánh cây gẫy một đoạn xa, lúc này nhìn xuống phía dưới thấy một máy bay bị gẫy làm ba, mà máy bay thì rất nhỏ, như vậy cây ở đây rất cao. Anh Long gọi ngay cho anh Tưởng và hai anh cứ từ từ bay vòng và lấy rộng ra lần lần, chúng tôi 6 người cứ thế mà dán mắt xuống dưới rừng tìm kiếm, cuối cùng anh Tưởng trông thấy một người đang cầm miếng vải đỏ ở dưới thung lũng sâu cách xa chỗ rơi máy bay nhiều cây số, đàu đội nón nâu như lính Nhảy Dù hay Biệt Ðộng quân, và đang ra tín hiệu, anh Tưởng nghĩ không biết người này đang ra dấu cái gì, vì nếu là lính hay là NVPH ít nhất cũng phải biết sử dụng miếng vải "si-nhan" (Signal). Anh ta là ai và muốn gì? Vì Anh ta sử dụng miếng vải đưa lên đưa xuống như vẩy nước ở trong khăn cho khô. Nhưng anh Tưởng cũng phải xuống gần xem. Anh cũng biết vì thung lũng này bao quanh là núi nếu có gì rất khó phản ứng. Xuống gần đến nơi anh nhận ra Mevo Trần Văn Liên. Anh la lên: "Long ơi, Long! Thằng Liên, Long ơi!". Liên là em ruột anh Long, bay cơ phi chiếc anh Cung. Anh Long xúc động quá thảng thốt kêu lên: "Thằng Liên hả Ð/U?", rồi anh quay qua anh Yên nói trong nghẹn ngào: "Yên ơi! Yên mày bay đi tao chắc chết!", rồi anh buông cần lái, không nói thêm được gì nữa. Trong khi đó anh Tưởng không thể xuống được nữa vì dưới đó quá sâu, anh nói với Mevo Nguyễn Thanh Cần ra dấu cho Liên ở đó chờ, anh bay đi xả bớt xăng cho nhẹ Tàu rồi mới xuống được. Anh bay thẳng về Toumorong đáp xuống ruộng xả bớt hai bình xăng, sau đó anh bay lên và nói với Mevo Cần buộc giây ba chạc vào Hoist và thả xuống, ra dấu cho nó luồn hai chân vào giây ba chạc và ôm vào sợi giây, Liên lúc đó cũng quá căng thẳng rồi nên anh ta chỉ sỏ một chân rồi ôm cứng lấy sợi giây, và Liên cũng đã được đưa lên tàu. Hai PHÐ bay trở về B.15 và được Liên thuật lại diễn tiến tai nạn:
"Lúc vào trong mây chỉ thấy núi và cây, anh Cung chỉ "hover" lết theo ngọn cây mà bay, sau đó anh quẹt vào cây, và máy bay cứ lao thẳng tới, và vào những nhánh cây lớn và rơi thẳng xuống. Liên chỉ đeo cái Headset mà không đội nón bay, thật là may mắn Liên không bị thương chỉ sây sát sơ sơ trên đầu, Anh dùng băng cá nhân màu nâu quấn ngang đầu, lúc rơi xuống anh Cung còn tỉnh táo, leo ra khỏi máy bay, và Liên dìu anh Cung ra xa khỏi nơi tai nạn. Anh mệt quá vá yêu cầu Liên cho anh ngồi nghỉ dưới một gốc cây, sau đó anh nói Liên móc trong túi anh lấy ra cái bóp và cái hộp quẹt Zippo. Anh nói Liên đem về cho vợ con anh, và anh nói là anh bị tức ngực, một lát sau anh Cung nẩy người lên và rút hai chân, hai tay cũng co lại trong tư thế ngồi bay, rồi trút hơi thở cuối cùng , Anh Ð/U ÐẶNG VĂN CUNG đã hy sinh ngày 11/05/1970. Trước khi Anh vĩnh viễn lìa bỏ gia đình và đồng đội anh đã tức chính bản thân mình "Tại sao không "control" được lại để cho rơi!" và anh đã nấc lên co vào tư thế bay để rồi lịm đi. Liên thấy bất lực trước cái chết của vị chỉ huy của mình, không làm gì được, anh cứ thế đi theo triền dốc, càng đi cây cối càng rậm rạp, nghe tiếng máy bay mà không có cách nào ra hiệu cho máy bay thấy cả, vì cây cao và tàng cây che kín. Sau cùng anh ta xuống đến gần cuối chân núi mới có một khoảng trống, cũng may vừa chạy đến đó thì anh sắp lả vì đói và mệt, thì được máy bay anh Tưởng kịp kéo lên đưa Liên về.
Tiếp tục anh Tưởng, anh Long cùng máy bay quan sát từ Pleiku đua nhau đi tìm chiếc anh Vượng, đồng thời anh Tưởng yêu cầu cho thả Team xuống để đưa xác anh Cung và Th/U Ðạt về. Khi thả Team thì cây quá cao "hoist" và thang giây không thể xuống tới nơi được, phải cho Team tuột giây Thụy Sỉ, khi Team vào đến nơi bị tai nạn, thì không thể nào lấy được xác của Th/U Ðạt vì Transmission đã đè lên Th/U Ðạt chỉ còn thấy có nửa mặt phải. Sáng hôm sau, trực thăng đã câu được anh Cung về, cũng vẫn còn tư thế ngồi bay, làm mọi người vẫn tưởng anh chết trên máy bay, lập tức xác Anh được đưa vào trại tắm rửa và nắn lại tư thế nằm ngủ. Anh đã cài nịt bụng nhưng quên cài giây choàng vai nên bị cần lái đập vào ngực và mặt, làm mặt anh sưng lên và ngực bầm tím. Thi hài anh được đưa về Ðà Nẵng và gởi tại Bệnh viện Duy Tân. Anh Tưởng liên lạc với Trực Thăng. CH-53 của Quân Ðội Hoa Kỳ đến thả giây xuông móc vào Main Rotor kéo Transmission lên để Team lôi xác anh Th/U Ðạt ra, và thi hài Th/u Ðạt đã được mang về, vì anh đã bị vùi xuống đất và nửa mặt phải ở phía trên nên nửa phần mặt nổi lên trên bị tím đen.

Cuộc tìm kiếm vẫn còn tiếp diễn, PÐ 219 cho thêm TT lên tăng cường tìm kiếm, đến ngày thứ ba thì phi cơ quan sát đã tìm gặp xác máy bay CH-34 ở phía Tây Bắc của nơi anh Cung bị rơi và cách nơi anh Cung khoảng mười mấy cây số, một thung lũng cây thưa thớt. Máy bay đã bị cháy thành tro, trên cao nhìn xuống như ai đã vẽ lại chiếc may bay của anh Vượng. Với nơi trống trải này thì chắc anh Vượng đã bị Vertigo rồi. Thả Team xuống chỉ còn hốt tro ba người và chia đều ra ba túi là :
Anh Ð/U NGÔ VIẾT VƯỢNG - 
Tr/U SQ.ÐL LÊ VĂN SANG - 
Th/S PHẠM VĂN TRUẬT. 

Anh Truật là người có tín ngưỡng rất cao, anh theo đạo Công giáo và mỗi lần khi đi xe ngang qua nhà thờ, anh đều xuống xe dẫn bộ, mỗi khi đi bay trông thấy một chiếc TT câu một chiếc khác, anh đều làm dấu và cầu nguyện ơn trên phù hộ cho những người bị nạn tai qua nạn khỏi. Bây giờ ngày 11/05/1970, các anh đã ra đi. Chúng tôi toàn thể anh em PÐ 219 Ðồng Ðội của các anh luôn luôn mặc niệm và tưởng nhớ đến các anh cùng cung kính cầu nguyện cho các anh sớm về cõi Vĩnh Hằng.
Sau khi thi hài của ba anh được đem về ÐNG thì Phi Ðoàn phân công chia nhau đưa các anh về với thân nhân gia đình. Tôi và một số sĩ quan trong Phi Ðoàn được phân công đi theo anh Lộc đưa thi hài anh Phạm Văn Truật về với gia đình anh ở Giáo Sứ Bùi Môn, gần T.T.H.L. Quang Trung. Khi quan tài anh được đặt đúng chỗ trong nhà theo yêu cầu của gia đình anh, anh Lộc cho làm lễ truy điệu và mặc niệm trước linh cửu anh Phạm Văn Truật. Khi anh Lộc hô to: "Một phút mặc niệm bắt đầu!", thì tôi thấy người nhà bưng một cái rổ to tướng từ ngoài cửa đi vào trong nhà, trong rổ là hai chú chó to lớn đã được thui sẵn vàng rụm và bóng lưỡng, lúc đó dù không khí đau buồn và trang nghiêm, nhưng tôi cố bấm bùng nhịn cười vì chưa bao giờ tôi thấy như thế này, chắc anh Lộc cùng các anh em khác cũng vậy. Nhưng tới ngày nay mỗi năm vào ngày một Tết, tôi đều đến viếng mộ anh Truật. Còn về thi hài anh Vượng thì tôi được nghe nói đến ngày đưa đám anh có 4 chiếc CH. 34 bay lượn trên bầu trời Huế tiễn đưa anh Ngô Viết Vượng đi về nơi an nghỉ cuối cùng. Anh Sang thì có anh Ngọ và một số anh em khác đưa về Saigon với thân nhân.
Nhưng cái số anh Long và Liên bị thời tiết xấu đeo đuổi, cả hai thoát chết ngày 11 tháng 5 năm 1970, nhưng họ lại chết chung với nhau ngày 09 tháng 10 năm 1971, cũng vì thời tiết xấu trên đường từ Quản Lôi về Sài Gòn.
Trước đó một ngày, Trưởng trại Quản Lợi yêu cầu anh Vũ Ðức Thắng Kingbee Lead cho tăng cường máy bay để đi đón một đại đội về, anh Thắng điện ra Ban Mê Thuột yêu cầu anh Trần văn Long cho tăng cường một chiếc (lúc này anh Trần văn Long cũng đã là Leader ở Biệt Ðội BMT), sáng sớm hôm sau phải có mặt tại sân bay Lộc Ninh. Chiều hôm đó, PHÐ Vũ Ðức Thắng - Nguyễn Ngọc An - Nguyễn Văn Mai và PHÐ Nguyển Hải Hoàn - Nguyễn Văn Kim (Kim méo) - tôi bay về Saigon. Khi về đến nhà thì Nguyễn Thanh Cần tình nguyện bay thế tôi.
Buổi sáng tinh mơ hôm đó, thứ Bảy ngày cuối tuần, hai PHÐ của anh Thắng và Hoàn bay lên Quản Lợi và lên trực ở sân bay Lộc Ninh và anh Long đã chờ ở đó với Ðại Uý Miller trưởng ban điều động hành quân. Phi vụ ngày hôm đó hoàn tất trễ, đến 20 giờ tối mới cất cánh về Saigon. Trời Quản Lợi tuy không được trong lắm, nhưng mọi người cũng quyết định bay về Saigon với ba PHÐ THẮNG - AN - MAI, LONG - THÀNH - LIÊN & HOÀN - KIM - CẦN. (Ðúng ra thì Mevo đi với anh Trần văn Long là Trần Mạnh Nghiêm vì Nghiêm là Mevo trước Liên với lại Phi Ðoàn không cho anh em bay chung nhưng anh Long lên BMT lại là Leader và khi về Quản Lợi sẽ nghỉ đêm ở Saigon nên rủ Liên cùng về). Khi ba chiếc bay đến xã Minh Hưng cách thị trấn Chơn Thành khoảng 20 cây số thì trời bắt đầu đổ mưa, và mưa mỗi lúc một to thêm. Ban đêm trời mưa nên không còn trông thấy gì nữa cả, hai chiếc đầu của anh Thắng và anh Long bay lạc hướng về phía xã Minh Lập, còn anh Hoàn cứ bò theo đường Quốc Lộ 13 về đến sân bay Chơn Thành, một sân bay nhỏ nằm gần lề đường ngay đầu thị trấn. Anh Hoàn không thể bay được nữa đã đáp xuống đây sát đồn Cảnh Sát Dã Chiến, vào khoảng nửa đêm được tin địch quân có thể tấn công nên trưởng đồn cảnh sát đã phát cho ba chàng Không Quân ba khẩu M.16 và yêu cầu ra vòng đai nằm gác, thế là ba chàng vừa thoát tai nạn này lại ập đến tai nạn khác, cứ thế mà nằm ngoài giao thông hào cho đến sáng.
Sáng Chủ nhật, tôi được Cần đến nhà trả Headset và mếu máo cho biết hai chiếc anh Thắng và anh Long chết hết rồi. Tôi bàng hoàng trước tin tức này, vội chụp Headset mà Cần trả mặc vội quần áo nhờ chú em cũng Không Quân chở vào phi trường Tân Sơn Nhất và gặp anh Phạm Ngọc Sâm, và được biết hai chiếc đã bị Vertigo. Tôi bay theo anh Sâm lên Chơn Thành và lùng tìm hai chiếc bị mất tích, sau đó tìm gặp hai chiếc rớt ở hai nơi cũng khá xa nhau nhưng đều thuộc xã Minh Lập, nơi đây thuộc rừng chồi, nhưng cây cũng đã cao khỏi nóc nhà, hai chiếc đều bị cháy. Ban đầu tìm ra xác chiếc của anh Thắng ba người VŨ ÐỨC THẮNG - NGUYỄN NGỌC AN - NGUYỄN VĂN MAI, đều bị cháy đen. Sau mới tìm ra chiếc của anh Long PHÐ gồm TRẦN VĂN LONG - NGÔ VĂN THÀNH - TRẦN VĂN LIÊN, hai người bị cháy đen là Thành và Liên còn anh Long chỉ bị xém sơ thôi nhưng mất cái đầu, tìm mãi vẫn không thấy đâu cả. Chúng tôi cứ đi tìm mãi tới trưa thì thấy ở trên cây, chắc là anh Long đã nhảy ra và bị cánh quạt chặt như một tai nạn xảy ra ở Cần Thơ trước nay. Chúng tôi đáp máy bay đáp ngay lề một đường mòn nhỏ và các Biệt Kích lôi ra những cái Poncho trong đó là ba xác Long, Thành, Liên. Xác anh Long thật là nặng vì anh rất mập mạp. Lính Biệt Kích để dưới đất rồi đi, thành ra một mình tôi ì ạch khiêng ba chàng lên máy bay, đưa thẳng về Tử sĩ Ðường Tân Sơn Nhất gần cổng sau của trại Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám.
Như vậy là Phi Ðoàn 219 đã tổn thất 6 người vào đêm thứ Bảy ngày 21 tháng 08 năm Tân Hợi tức là ngày 09 tháng 10 năm 1971. Thật là đau thương khi về đến gia đình anh Trần Văn Long, hai quan tài để song song, mẹ già khóc cho hai con.
Từ năm 1971 đến 1975, PÐ 219 trải qua biết bao đổi thay, biết bao nhiêu anh em đã ra đi. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến chấm dứt, một số may mắn ra đi vào thời điểm này, số còn lại đi tù cải tạo. Sau này các Sĩ Quan được đi Hoa Kỳ theo diện HO, chúng tôi Hạ Sĩ Quan không được xét tới, nên ở lại. Nhưng tình đồng đội giữa chúng tôi không phai mờ. Gần 30 năm sau cuộc chiến, tôi vẫn còn nhớ rõ từng chi tiết để ghi lại đây. Những kỷ niệm của một thời sống chết bên nhau sẽ luôn luôn sống mãi trong tôi.
 
KingBeeMan & Lãng Tử

Tuesday, March 19, 2013

Những Người Lính Cùng Chiến Tuyến Bảo Vệ Tư Do


Những Người Lính Cùng Chiến Tuyến Bảo Vệ Tư Do

Ðây là toán hầu kỳ danh-dự trong lễ an-táng các hài cốt phi-hành-đoàn của chiếc trực-thăng H-34 thuộc QLVNCH gặp tai nạn vào năm 1965 ở biên-giới Lào-Việt.

Lễ an-táng được thực-hiện tại Nghĩa-trang Quốc-gia Arlington, Tiểu-bang Va. Các hài-cốt gồm có: cố Thiếu-Tá Larry Thorn (USAF), cố Trung-Uý Phan-thế Long (VNAF), cố Thiếu-Úy Nguyễn-bảo-Tùng (VNAF) và cố Trung-Sĩ Bùi văn Lành (VNAF).

Chúng ta có thể nhìn thấy các toán hầu kỳ danh-dự mang trên tay một lá cờ Mỹ và 3 lá cờ của VNCH.

Nguyên Huy


Đó là những người lính Hoa Kỳ và VNCH trên chiến trường VN vào những năm trước năm 1975. Một thời gian họ đã là những người sinh tử có nhau. Với họ, cuộc sống của nhau như đã gắn liền. Một lệnh hành quân phối hợp là cùng nhau chia sẻ hiểm nguy và những hiểm nguy trên chiến trường thì không bao giờ phân biệt cái gì cả. Sống trong tình trạng thường xuyên như vậy, người lính VNCH đã nảy sinh những tình cảm thật thân thiết đến có thể xả thân cứu bạn như những người lính không quân của VNCH đã từng nhiều lần đối với chiến binh Hoa Kỳ trong cuộc chiến VN. Một Lê Quý An và nay lại một Phan Thế Long nữa được chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ ghi nhận.

Hôm nay, 26 tháng 6 tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington, có lễ an táng Phi Hành Đoàn VN và cố Trung Úy Phan Thế Long được an táng trọng thể tại nghĩa trang vinh dự này. Mất tích trong một phi vụ phối hợp Mỹ Việt vào ngày 18 tháng 10 năm 1965, Trung Úy Phan Thế Long thuộc biệt đoàn 83 không đoàn 33 của không lực VNCH nay đã được chính phủ Hoa Kỳ làm lễ an táng tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington sau khi tìm thấy được hài cốt và chuyển sang Hoa Kỳ trong những chương trình tìm kiếm người Mỹ mất tích với CSVN. Được biết tin này chúng tôi đã tìm cách liên lạc với gia đình cố Trung Úy Long cùng những chiến hữu của cố Trung Úy.

Cựu Đại Tá Phước phi đoàn trưởng 219 KLVNCH hiện ở Pasadena cho biết: "Chúng tôi cùng học khóa I Không Quân VN tại Marrakech từ 1952 cùng khóa với Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Long ở trong một đơn vị không quân có nhiệm vụ đi toán biệt kích trên đường mòn Hồ Chí Minh. Trong một chuyến bay đổ toán từ Đà Nẵng đến Kontum khi ngang qua Khâm Đức, máy bay của Long đã mất tích. Phi hành đoàn trong chuyến bay này có ba VN là Long, phi công chính và Trung Úy Nguyễn Bảo Tùng, khóa 16 Đà Lạt và hoa tiêu trung sĩ Bùi Văn Lành. Toán biệt kích vì lý do bí mật quân sự, không được biết là có bao nhiêu Hoa Kỳ nhưng chúng tôi biết rõ là thường thì Toán đi công tác như vậy có ít nhất là một người Mỹ và hai người Thượng.

Mất tích trong khi hành quân đối với quân nhân chúng tôi lúc bấy giờ là chuyện không lạ. Có thể bị địch bắt, có thể hy sinh và cũng có thể đang tìm đường về hay sống mòn mỏi trong các khu rừng rậm ven dãy Trường Sơn. Điều đau khổ không phải cho chúng tôi, những người lính mà là cho gia đình. Những người thân yêu ấy cứ phải sống thấp thỏm trong hy vọng thật mong manh nhưng không ai dám nghĩ đến cái chết vì sợ tuyệt vọng."

- Thưa trong trường hợp nào mà niên trưởng được biết tin cố Trung Úy Long được an táng tại Arlington ?

- Không quân chúng tôi có anh Nguyễn Quí An thường xuyên liên lạc với phía Hoa Kỳ.

- Tin này do phía Chính Phủ Hoa Kỳ nhờ anh An tìm giùm gia đình của Cố Trung Úy Long. Và qua những hội cựu quân nhân Không Quân tôi đã bắt được liên lạc với cháu Bích là cô con gái của anh Long hiện ở tại nam California.

- Về việc một chiến hữu của mình được chính phủ Hoa Kỳ ghi công như vậy, niên trưởng có cảm nghĩ gì không ?

- Cảm nghĩ, ôi chào, thì nhiều nhưng biết nói sao giờ nhỉ. Chúng tôi nói riêng anh em không quân VNCH rất là trân trọng việc làm của chính phủ Hoa Kỳ hiện tại. Đây có thể coi như là một hành động vinh danh QLVNCH trong cuộc chiến đấu bảo vệ tự do ngày nào và cũng là để ghi ơn những người lính VNCH đã.

Tiếp xúc với chúng tôi qua đường dây điện thoại, chị Bích, người con gái yêu của cố Trung Úy Long ngày nào, xúc động cho biết: "Khi được bác Phước cho biết tin này, chúng tôi vừa mừng vừa buồn. Mừng vì đã có tin chính xác về cái chết của người cha thân yêu của chúng tôi. Buồn vì từ nay mất hẳn hy vọng thấy lại được người cha mất tích. Đã qua bao nhiêu năm chúng tôi không thể quên được hình bóng người cha oai hùng trong tấm áo phi công. Mặc dù khi ấy tôi mới chỉ có 8 tuổi chưa có được ý thức gì về chiến tranh nhưng tôi cứ thấy vẻ lo lắng của mẹ mỗi khi ba tôi mặc áo phi công ra khỏi cửa, là tôi cũng cảm thấy có một cái gì nao nao trong dạ. Khi ấy thì tôi không thiết chơi với ai cả. Tôi nhớ nhất là có một buổi mẹ tôi làm bữa ăn ngon mà ba tôi thích và ba bay trên mái nhà báo hiệu là ba đã về, nhưng rồi cứ chờ mãi chờ mãi đến khuya thật khuya Ba mới mở cửa bước vào. Chiếc áo phi công vấy đầy máu. Mẹ tôi hét lên chạy đến ôm lấy ba tôi đỡ vào ghế bành nhưng ba tôi chợt cười lớn. Câu chuyện tôi còn nhớ thật rõ như mới xảy ra ngày hôm qua. Ba nói anh có sao đâu mà em lo lắng quá vậy. Sao áo anh đầy máu. Máu của người bạn Mỹ mà anh vừa cứu họ được khi chiếc máy bay của anh ta bị bắn rớt ... Đáng lẽ nhiệm vụ anh đã xong về kịp với em nhưng nghe cấp cứu ... anh không trở về với em ngay được, con mèo nhỏ của anh chắc lo lắm hả." Rồi thì sau cùng Ba tôi cũng không về nữa. Mẹ tôi âm thầm sống cuộc đời sương phụ và đã mất vào năm 1984 tại Hoa Kỳ,"

- Được tin báo là chính phủ Mỹ tìm được hài cốt của Ba và sẽ an táng tại nghĩa trang Arlington, cô có cảm nghĩ gì không?

- Vinh dự. Thật vinh dự. Chỉ tiếc là Mẹ tôi không còn sống để hưởng cái vinh dự này để bù lấp vào những năm tháng mỏi mòn cô phụ. Chúng tôi được chính phủ Hoa Kỳ mời lên WDC tham dự lễ an táng phi hành đoàn và lễ an táng cha tôi vào ngày 26 này. Khi chúng tôi viết bài này cũng là lúc nhận được tin lưỡng viện Quốc Hội Louisiana công nhận lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ mà cố Trung Úy Phan Thế Long đã hy sinh dưới lá cờ đó, đồng thời cũng nhận được tin Thống Đốc Tiểu bang Texas chấp nhận dự luật về quyền lợi cho người cựu chiến binh VNCH như những cựu chiến binh Hoa Kỳ trong một số phạm vi, chúng tôi bỗng lạc quan tin rằng đã đến lúc cuộc chiến đấu của những người lính chiến đấu trong cuộc chiến VN được trả đúng danh dự cho họ sau bao nhiêu năm bị những nhà đầu cơ chính trị và kẻ thù xuyên tạc.

Công việc còn lại bây giờ là những người lính ấy còn sống sót và trong cuộc sống lưu vong tị nạn này có đích thân bảo vệ được cái danh dự ấy hay không.

NGUYÊN HUY

18 Oct 65, Larry Alan Thorne, Cpt 0-3, Norwalk, Conn; USASF, Shining Brass, FOB#1, Kham Duc,Crashed outside of Da Nang aboard Vietnamese CH-34, MIA long with the Vietnamese Pilot, Co-pilot, and Door Gunner all whom were KIA.
Cpt Thorne became missing after inserting the first MACV-SOG mission from Kham Duc into Laos. (Cpt Thorne was involved in the insertion of the 1st Shining Brass Recon Mission ran by Charles "Slate" Petry, Jim "Halo" Smith, and William "Willie" Card. Cpt Thorne was a passenger when the aircraft crashed)
(See the story by Al Friend, A Walk in the Indian Camp in the Tales from SOG section).
[Thorne is featured on page 35-37, SOG, A Photo History of the Secret Wars by John Plaster]. For more on Larry Thorne, click on Thorne. Also visit Larry Thorne's video clip

Mang các anh về miền đất tự do



Anh Linh Chiến Sĩ Thuộc Phi Ðoàn Long Mã 219
Đã An Nghĩ Tại Nghĩa Trang Quốc Gia Hoa Kỳ

(Arlington Cemetery, VA) - Mọi người lặng im theo dõi từng cử động của Anh Hạ Sĩ Quan trong ban nghi lễ, trên tay mang lá cờ Việt Nam Cộng Hòa, tiến đến thân nhân phi hành đoàn 219 trên chiếc trực thăng H34, bị rơi vào ngày 18 tháng 10 năm 1965. Đánh dấu lần thứ tư Quốc Táng hài cốt chiến binh Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa (Standard Honors Funeral for Vietnam Group Burial) đã được trọng thể tổ chức tại nghĩa trang Quốc Gia Arlington vào ngày 25 tháng 6 vừa qua với sự tham dự đông đảo của các cựu quân nhân QLVNCH, Hoa Kỳ và nhân sĩ vùng Hoa Thịnh Ðốn.


Được biết vào ngày 18 tháng 10 năm 1965, trên chuyến bay định mệnh cất cánh từ Khâm Đức đưa Thiếu Tá Larry Thorne "nhảy" vào lòng đất địch, phi hành đoàn gồm có hai phi công là Trung Uý Phan Thế Long, Trung Uý Nguyễn Bảo Tùng và một xạ thủ là Thượng Sĩ Bùi Văn Lành, đã bị rớt vì mây mù, (As many of you are aware Larry was lost in the clouds on 18 Oct.'65 on a CH-34 "KINGBEE" helicopter from the 219th Vietnamese Air Force Squadron - trích từ tài liệu www.pownetwork.org/bios/t/t375.htm) cách thành phố Đà Nẵng 25 dậm về hướng Tây Nam (tọa độ 152558N 1074744E, YC895105). Ngay sau đó liên tiếp có nhiều cuộc dọ thám để truy tìm các di hài của các chiến sĩ trên chuyến bay này nhưng không có kết quả. Chỉ duy có các di tích như súng cá nhân Swedish "K" SMG (Thuỵ Điển chế tạo) của ông Thorne là được tìm thấy gần địa điễm các hài cốt được thấy sau này. Vào năm 1999 nhờ các toán tìm kiếm MIA đã giúp việc truy danh những anh hùng tại phòng lab ở Hawaii. Trường hợp Thượng Sĩ Bùi Văn Lành không có thử nghiệm DNA vì nhờ tìm được tấm thẻ bài. Cho đến hôm nay Hoa Kỳ không hề có một liên lạc nào với gia đình hay người thân của Anh Lành.

Vào năm 1938, Ông Larry được danh tặng là Chiến Sĩ Chống Cộng. Ông đã từng chiến đấu từ những ngày ở Phần Lan trong Đệ Nhị Thế Chiến. Ông từng tham gia lực lượng SS của Đức chống CS Nga. Sau khi Đệ II Thế Chiến chấm dứt, Ông Thorne di tản sang Hoa Kỳ và gia nhập quân đội vào ngày 28 tháng 1 năm 1954. Vào cuối năm 1954, Ông được tuyển vào Lực Lượng Biệt Cách Dù đội nón xanh (Green Beret) và được thụ huấn tại Fort Bragg North Carolina. Sau đó nhảy toán phục vụ tại Tây Đức và Iran. Cuối cùng Thiếu Tá Larry Thorne đến Việt Nam vào tháng 11 năm 1963 và vĩnh viễn ở lại nơi ấy vào ngày 18 tháng 10 năm 1965.

Nếu nói về sự hy sinh của các biệt kích Hoa Kỳ thì phải nói đến sự can trường và lòng dũng cảm của các Anh Hùng thuộc phi đoàn 219 Không Quân Việt Nam. Đặc biệt xin ghi nhận nơi đây những anh hùng như Bùi Văn Lành, Phan Thế Long và Nguyễn Bảo Tùng. Theo tài liệu Đỗ Văn Hiếu, đầu năm 1964, KQ có 3 trực thăng H-34 biệt phái làm việc với Lực Lượng Đặc Biệt Delta ở Nha Trang. Nhiệm vụ của biệt đội này là thả các toán thám sát dọc theo biên giới Việt Miên hoặc vào các mật khu của Việt cộng. Đến giữa năm 64 một biệt đội khác cũng gồm 3 chiếc trực thăng H-34 biệt phái làm việc với các chiến đoàn Xung kích, thuộc Sở Liên Lạc/TTM, và nhiệm vụ của biệt đội này là thả các toán thám sát Lôi Hổ về phía bên kia biên giới Miên Lào để kiểm soát các hoạt động của địch quân. Đầu năm 1966 hai biệt đội này xát nhập lại để thành lập Phi Đoàn 219, đồn trú trong nội vi phi trường Đà Nẵng. Phi Đoàn này trực thuộc Biệt Đoàn 83 ở TSN cho đến khi Biệt Đoàn giải tán vào năm 1969 thì trực thuộc KĐ 41 CT. Bộ chỉ huy đầu tiên của Phi Đoàn 219 gồm: Đại úy Hồ bảo Định, Đại úy Trần văn Luân, Đại úy Nguyễn văn Nghĩa, Đại úy Nguyễn phi Hùng, Trung úy Nguyễn hữu Lộc, Trung úy Đỗ văn Hiếu. Sau khi thành lập Phi Đoàn 219 vẫn giữ nhiệm vụ thả các toán thám sát Lôi Hổ bên kia biên giới Miên Lào trong lãnh thổ quân khu I và II.

Trên trang nhà www.specialoperations.com, họ đã danh tặng những anh hùng Không Quân Việt Nam như sau: "219th Helicopter Squadron, Vietnamese Air Force (VNAF) - This page is dedicated to the brave, exceptional young Vietnamese Pilots, Copilots, Crew Chiefs, Gunners of the 219th by the men of SOG. We owe you a deep sense of gratitude, appreciation, and thanks, which these words can never fully express. We each hold you dear in a special place in our hearts. You are not forgotten!" Trong trang này đã nhắc đến Tướng Nguyễn Cao Kỳ là một trong những sĩ quan không quân ưu tú của QĐVNCH. Thời bấy giờ ông mới 31 tuổi mà đã nắm vai trò lãnh đạo quan trọng và hơn thế Tướng Kỳ "Willing to fly anything and everything, anywhere!".

Nguồn gốc 219 là Biệt Đoàn 83 "Thần Phong" do Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thành lập, 83rd SOG (Special Operation Group). Nhiệm vụ chính của Biệt Đoàn là thi hành các phi vụ đổ biệt kích ra Bắc, Hạ Lào và một số phi vụ "cảm tử" khác. Có lẽ vì tính cách "đi dễ về khó" ấy, biệt đoàn đã lấy danh hiệu Thần Phong (tức Thần Phong Cảm Tữ, giống như các phi công Kamikaze của Nhật trong thế chiến thứ hai).

Sau khi Thiếu Tướng Kỳ tham chính, Biệt Đoàn 83 Thần Phong đương nhiên trở thành một lực lượng trung kiên, một hậu thuẩn của ông. Chính vì thế, sau khi lên làm Tổng Thống, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đã ra lịnh giải tán Biệt Đoàn này vào năm 1968. Phi cơ và nhân sự được phân phối đi các đơn vị khác, hoặc thành lập đơn vị mới. Riêng các phi công trực thăng thì trở thành lực lượng nồng cốt của một đơn vị tân lập: Phi Đoàn 219, nhiệm vụ không thay đổi: đổ biệt kích.

Phi đoàn 219 đồn trú tại căn cứ KQ Đànẵng (KĐ41CT) nhưng nhân viên thì ở tại biệt thự số 8, đường Nguyễn Thị Giang ngoài thành phố. Sở dĩ có chuyện đó là vì phi đoàn chỉ trực thuộc KĐ41 về quân số (hành chánh, tài chánh) mà thôi. Còn về hoạt động, phi đoàn được điều động bởi Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ.

Địa bàn hoạt động chính yếu là từ những điểm xuất phát ở Khe Sanh, Kontum (B15) và Non Nước (Đà Nẵng) hành quân từ vĩ tuyến 17 dọc theo đường mòn Hồ-chí-Minh vào lãnh thổ nam ViệtNam, A Sao, A Lưới, Dakto, Tân Cảnh, Ngả Ba Tam Biên và sau nầy kéo dài xuống tới Ban-Mê-Thuột, Quản Lợi, Long Thành.

Các phi cơ H-34 Choctaw của phi đoàn được sơn ngụy trang màu rằn ri, màu của lực lượng đặc biệt và không mang bất cứ phù hiệu nào, trừ hàng số nhỏ ở đuôi phi cơ để nhận dạng mà thôi. Nhiệm vụ của phi đoàn là thả các toán biệt kích để kiểm soát, khám phá và theo dõi mọi vận chuyển của địch vào lãnh thổ của VNCH. Khi hành quân, phi đoàn lấy danh hiệu là "King Bee" để tiện việc phối hợp với phía Hoa Kỳ, vì thế đối với các chiến sĩ biệt kích (Lôi Hổ), danh hiệu "King Bee" đã trở thành quen thuộc và luôn luôn gắn bó với họ. Những toán biệt kích, mỗi lần công tác, quân số không quá 7 người và được ngụy trang bằng quân phục và vũ khí của địch (súng AK 47). Thời gian công tác của mỗi toán không quá 7 ngày.


Thời gian sau, Mỹ rút quân, tất cả các phi vụ của phi đoàn 219 đều được đặt dưới quyền của Nha Kỷ Thuật do Đại Tá Đoàn Văn Nu làm Giám đốc và Đại Tá Dư Quốc Lương làm Chánh Sở Không Yễm. Phi đoàn làm việc sát cánh với Sở Liên Lạc của Nha Kỷ Thuật, mà sau gọi là trại Nguyễn Cao Vỹ (lấy tên cố Thiếu Tá Nguyễn Cao Vỹ tử nạn ở Khe Sanh).

Tưởng củng nên nhắc lại các vị anh hùng nổi tiếng của 219, cố Thiếu Tá Vũ Ðức Thắng biệt danh "Alain Delon".Thiếu Tá Nguyễn Quý An, hiện đang sinh sống tại San Jose, một phi đội trưởng anh hùng gia nhập 219 từ những ngày đầu. Trong phi đoàn 219, Thiếu Tá An là người nổi tiếng về tài điều khiển chiếc H-34 cùng với Thiếu Tá Nghĩa "con" (bị mất chiếc UH-1 tại Đà Lạt) cố Thiếu Tá Hùng, cố Thiếu Tá Hiệp "cồ", v.v...

Theo tài liệu Nghĩa Trang Arlington, vào tháng 3 năm 1990, đã có hai chiến sĩ Không Quân VNCH (không định được danh tánh) đã được an táng chung với Staff Sgt. Richard Fitts tại sec. 34 # 4524. Các Anh Hùng KQVN Vô Danh này mất tích ở Lào vào năm 1968. Vào dịp lễ Memorial năm 2000, hai chiến sĩ không quân khá c đã được an táng tại Arling c ù ng với Col. George William Jensen, Capt. Marshall Landis Tapp, Col. Lavern George Reilly, Maj. George Winton Thompson, CMSgt. James Arthur Preston CMSgt. James Ellis Williams, CMSgt. William Louis Madison, SMSgt. Kenneth Dewey McKenney. Ghi nhận "Although the identities of the two South Vietnamese crew members remain uncertain, their presence aboard Spooky 10 will be proudly acknowledged and their loyalty and military service will be given equal honor for the price that they have paid in the name of Freedom." Vào ngày 8 tháng 11 năm 2002, tại nghĩa trang Arlington, Thiếu Tá Bộ Binh Vũ Vành Pháo đã được an táng phần hài cốt còn lại với Major David Padgett, Captain Ronald Briggs, Sergeant 1st Class Robert O'Hara, Lieutenant Colonel Donald Parsons, Chief Warrant Officer Charles Stanley, Sergeant 1st Class Eugene Christiansen.

Theo tài liệu của Trần Ngọc Toàn, Nguyễn Bảo Tùng cùng gia đình tị nạn Cộng Sản di cư vào Nam năm 1954. Sau khi đổ Tú Tài anh tình nguyện gia nhập vào trường Võ Bị Ðà Lạt. Tại Võ Bị Ðà Lạt anh Tùng luôn đảm nhận các vai trò xướng ngôn trong các sinh hoạt văn nghệ và chương trình phát thanh hàng tuần của Trường Võ Bị . Giọng nói ấm áp , rõ ràng của anh trong những bài tế văn ở những buổi chiêu hồn tử sĩ như còn văng vẳng bên tai những cựu sĩ quan hiện diện lúc ấy. Vì nhu cầu sĩ quan ngoài chiến trường, khoá 16 Võ Bị được cho tốt nghiệp sớm một năm. Cùng với 27 tân sĩ quan vừa mới ra trường, Bảo Tùng đã tình nguyện phục vụ trong quân chủng Không Quân. Sau thời gian du học láy trực thăng bên Mỹ trở về, Bảo Tùng bắt đầu sự nghiệp bay bổng trên khắp bốn vùng chiến thuật. Do nhu cầu hành quân, Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ đã xin Không Quân VNCH tăng phái trực thăng để chở đổ quân trong các công tác bí mật , theo dõi, thu lượm tin tức hoạt động của Cộng Sản dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh, biên giới Việt Lào. Vợ con của Bảo Tùng đã đến định cư ở phụ cận Chicago năm 75, Mẹ và chị em của Bảo Tùng đã định cư ở Orange County năm 79. Nhờ có những người thân đang ở Mỹ nên việc xác nhận DNA của Bảo Tùng có thể thực hiện được dễ dàng.

Riêng Trung Uý Phan Thế Long, Ông có sáu người con. Sau khi được tin Ông mất tích bà Long ở vậy nuôi con. Bà hy vọng rồi có một ngày sẽ gặp lại chồng. Sự chờ đợi kéo dài cho đến tháng 5 năm 1984 thì bà Long từ trần. Theo Anh Phan Thế Dũng cai trai của Trung Uý Long, tâm sự tại buổi thăm viếng hài cốt ở nhà quàng Murphy Arlington vào ngày 24/6/2003, "Lúc bấy giờ tôi chưa tròn 4 tuổi, nhưng tiếng hét thất thanh của mẹ tôi khi nhận được tin đau buồn về cha tôi, đã vọng mãi trong tôi. Và tôi đã trưởng thành theo tiếng kêu tuyệt vọng đó cho đến ngày hôm nay". Anh tiếp, "Buổi lễ an táng hài cốt của bố tôi tại Arlington sẽ làm xoa dịu phần nào nổi đau khổ của mẹ tôi. Tôi từ nay sẽ an tâm vì biết được nơi thiên đường ấy bố tôi đã lo chu toàn cho mẹ tôi. Xin được cám ơn người bạn đồng minh Hoa Kỳ trong những giây phút khó quên nhất của cuộc đời tôi.".

Tại nghi lễ hôm 25 tháng 6 vừa qua, hai lá cờ VNCH đã được trao cho thân nhân của gia đình Trung Uý Phan Thế Long và Trung Uý Nguyễn Bảo Tùng. Riêng lá cờ thứ ba dành cho Sgt Bùi Văn Lành đã được mang về Fort Myer Casualty Affairs Office, theo email của Ông Tom Peske, Public Communications Team, U.S. Army Military District of Washington sau khi được hỏi về thân nhân của Anh Lành. Việc trao tặng Cờ Việt Nam Cộng Hoà rất quan trọng trong nghi thức Quốc Táng và được chú thích rất tường tận trong bản "Press release: Photo editor's note: An American flag will be presented to the next of kin of Thorne and three South Viet Nam flags will be presented to the next of kin for Nguyen, Phan and Bui.".

Võ Thành Nhân - VANN

CHUYẾN BAY TỬ THẦN VÀO ĐỒI 31 HẠ LÀO




Chuyện về cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào nhằm cắt đứt đường mòn HCM đã được nhiều người viết ra. Ðầu tiên là nhà văn Phạm Huấn với quyển "Trận Hạ Lào năm 1971", rồi nhà văn nhảy Dù Lê Ðình Châu, đại uý đại đội trưởng đại đội công vụ nằm vòng đai bảo vệ cho Lữ đoàn 3 nhảy Dù trên đồi 31 cũng ra mắt quyển "Ðôi mắt người TùBinh", và anh Nguyễn Văn Long, thiếu uý sĩ quan phụ tá ban 2 Lữ Ðoàn 3 nhảy Dù vẫn thường xuyên viết về Hạ Lào cho Ðặc San Nhảy Dù ỡ Úc Châu. Ở đây, tôi chỉ ghi lại câu chuyện như là một mẩu hồi ức dưới mắt nhìn của một người lính Không Quân.

Tôi là một hoa tiêu phục vụ trong phi đoàn 219, thuộc Không Ðoàn 51, Sư Ðoàn I KQ trú đóng tại Ðà Nẵng. Phi đoàn 219 là hậu thân của biệt đoàn 83 với nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến tranh thầm lặng trong bóng tối nhằm gây rối, phá hoại hậu phương của địch. Vì thế tất cả phi cơ của phi đoàn 219 chỉ sơn toàn bệt màu đen và xanh lá cây xẫm bên trên phần bụng trắng và không mang phù hiệu hay cờ gì cả ngoài số serial number mà thôi. Là một phi đoàn chỉ thi hành những phi vụ đặc biệt ngoài lãnh thổ và ngoài những cuộc hành quân bình thường, nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, nằm trong kế hoạch được mệnh danh là Việt hoá chiến tranh, một cuộc hành quân quan trọng lần đầu tiên hoàn toàn do QLVNCH đảm nhiệm với sự yểm trợ tối thiểu của không lực Hoa Kỳ trong những ngày đầu với những loại trực thăng khổng lồ chuyên chở những xe cơ giới hạng nặng như xe ủi đất, lô cốt tiền chế, đại pháo 105 và 155 ly để QLVNCH dọn bãi thiết lập những căn cứ hoả lực đầu cầu trên đất Lào. Vì thế nên Quân Ðoàn I đã phải trưng dụng tất cả những đơn vị KQ trực thuộc Sư Ðoàn I KQ trong đó có phi đoàn 219. Như vậy phi đoàn chúng tôi, ngoài những phi vụ đặc biệt thường lệ, lại phải đảm nhiệm thêm việc yểm trợ cho Sư Ðoàn Dù, một trong 3 lực lượng nòng cốt trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Mỗi ngày phi đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm 2 hoặc 3 chiếc H34 nằm trực chiến tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh Bộ chỉ huy tiền phương Sư Ðoàn Dù. Từ đây chúng tôi xuất phát những phi vụ tiếp tế lương thực, đạn dược cho các căn cứ hoả lực 29, 30 , 31 và các đơn vị hành quân lục soát bên ngoài căn cứ. Những phi vụ này thường là rất "hot", nhưng "hot" nhất vẫn là những phi vụ tải thương cho binh sĩ nhảy Dù khi có đụng độ với quân cộng sản Bắc Việt. Và chuyện này xảy ra như cơm bữa hàng ngày nên chúng tôi coi như pha. Chúng tôi cứ luân phiên nhau mỗi phi đội trực chiến cho Sư Ðoàn Dù 4 ngày rồi trở về Ðà Nẵng tiếp tục những phi vụ thường nhật.

Hôm nay đến phiên trực của chúng tôi. Phi đội gồm có 2 phi cơ do anh Chung tử Bửu lead, tôi copilot và Nguyễn văn Em là mêvô, chiếc thứ hai tôi chỉ nhớ hoa tiêu chánh là anh Yên. Chúng tôi vào phi đoàn nhận lệnh vào lúc 8 giờ sáng rồi chia tay nhau về nhà sửa soạn hành trang, hẹn gặp nhau lúc 10 giờ ngoài phi đạo 219.

Ðúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa thì chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn cứu đồng đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương SÐ Dù để đặt kế hoạch cho chuyến bay thì tôi và mêvô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn còn đầy bình trước, dư sức bay không cần phải refuel.

Một lát sau từ phòng briefing ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở theo một tiểu đội tác chến điện tử Dù cùng với 18 chiếc máy "sensor" vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn anh Nguyễn thanh Giang về. 15 phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch vì tình hình lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn phòng không gồm đủ loại từ 37 mm, 12ly7 và lần đầu tiên còn nghe có cả SA7 nữa. Về không trợ thì có 2 chiếc Gunship của phi đoàn 233 do trung uý Thục bay trước mở đường.

Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh Giang đã dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, mêvô Trần hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 tôi còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu qủa. Gần đến LZ anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship của trung uý Thục bay vòng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy "Bửu coi chừng phòng không ở hướng Tây". Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân bắc Việt. Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng một tràng đạn phòng không, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, mêvô Em la lên khẩn cấp trong máy "đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy". Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing "Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa" trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ đại uý An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi còn tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù "trên đây nè thiếu uý, tụi tôi bắn yểm trợ cho". Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như bò rống. Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.

Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã gần gụi với mình lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.

Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, thiếu tá Ðức trưởng ban 3, dại uý Trụ phụ tá ban 3, đại uý Nghĩa sĩ quan liên lạc KQ, trung uý Chính sĩ quan Không trợ Dù, thiếu uý Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có trung tá Châu tiểu đoàn trưởng và đại uý Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "ông" nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như máy! Quả các anh ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng chì thật.

Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân khóa 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của trung uý Nguyễn hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ý định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng.

Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn di động dàn phòng không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B52 rải thảm ì ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp. Ngược lại, quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù.

Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, chúng tôi nhận được lệnh và khởi sự di chuyển ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa đích thân phi đoàn với 3 chiếc H34 sẽ vào tải thương binh Dù đồng thời bốc 2 phi hành đoàn ra. Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận "tiền pháo" dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ nòng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân "Trời kêu ai nấy dạ!".

Ngòai kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc T54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn văn Ðương, người đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Chúng tôi vui sướng reo mừng trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 xe tăng khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình địch, và lại phá hủy thêm 2 xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 đang vần vũ trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.

Về phía KQ, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn giải ra bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù trên đường đi. Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần mêvô Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn Em gục chết ở bên đường.

Thế là 219 ghi thêm vào quân sử của mình một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của 2 phi hành đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?

Viết để nhớ đến tất cả những chiến sĩ anh hùng đã thành danh hay vô danh, vẫn còn sống hay đã hy sinh cho quê hương đất nước. Sau 31 năm it ra tên tuổi các anh vẫn còn được nhắc đến một lần.

Tháng 11 năm 2002

Bùi Tá Khánh

Phi Vụ Cảm Tử


K.Q. Phan Văn Phúc K.65F
Biệt đội 219 chúng tôi được biệt phái tăng cường yểm bộ cho tuyến đầu lửa đạn đóng tại căn cứ không quân Phú Bài.
Sáng sớm chúng tôi nhận được lệnh chờ Thiếu tá Hảo phi đoàn phó từ Nha Trang ra đón đi nhân phi lệnh khẩn cấp. Bay ra Huế vào phòng họp của bộ tư lệnh tiền phương, tôi cảm thấy lạnh người vì không khí nghiêm trọng của buổi họp. Bay theo Thiếu tá Hảo có Trung úy Hiệp, người bạn phi hành cùng phi đoàn gốc từ binh chủng biệt động quân. Chưa kịp chào hỏi thì hai chúng tôi được chỉ định ngồi vào hàng ghế đầu nghe thuyết trình. Hai thằng Trung úy “nhí” như chúng tôi được ngồi cùng với bao vị tướng tá sao không khỏi mất bình tĩnh?
Trước khi ban lệnh hành quân, vị tư lệnh hành quân tiền phương kêu gọi tinh thần can đảm và hy sinh tuyệt đối của hai chúng tôi vì chuyến bay này lành ít, dữ nhiều. Bộ tổng tham mưu đã hoạch định nhiều kế hoạch nhưng đều khó thực hiện được, cuối cùng phải chọn giải pháp dùng trực thăng của phi đoàn 219 bay đêm thả người vào cổ thành Quảng Trị đã bị VC chiếm đóng từ lâu. Hai đứa chúng tôi được chọn vì một đứa từ binh chủng nhảy dù sang và một đứa từ binh chủng Biệt động quân sang.
Ít nhiều chúng tôi đã trải qua thời gian chiến đấu ở trận địa. “Các anh chỉ biết nhiệm vụ là thả người và rải máy truyền tin điện tử vào đáp cạnh cổ thành Quảng Trị không cần biết lý do. Rất có thể các anh sẽ bị bắn rơi trong phi vụ này vì hỏa lực phòng không của địch rất mạnh nhưng tôi hy vọng và tin tưởng vào tài năng và kinh nghiệm bay bổng của hai anh. Nếu chẳng may các anh bị bắn rơi, hãy giả làm người dân chạy loạn nên tôi yêu cầu các anh phải đổi mặc đồ thường phục cà tất cả giấy tờ tùy thân gởi lại cho đơn vị trưởng, nếu có mệnh hệ nào chính phủ se bảo bọc gia đình các anh sau này. Tôi kêu gọi tinh thần dũng cảm cà sẵn sàng hy sinh của các anh trong thời điểm quan trọng này.”
Nhận lệnh hành quân, tuyệt đối phải thi hành một phi vụ đầy nguy hiểm vì nhìn vào bản đồ hành quân từ sông Mỹ Chánh trở ra VC đã chiếm đóng toàn bộ và mạng lưới phòng không dày đặc khó mà bay lọt. Để vô hiệu hóa phòng không địch và đừng để cho chúng phát hiện kịp chỉ còn một phương cách duy nhất là chúng tôi phải bay đêm, tắt hết đèn và bay thật thấp, thật nhanh. Thật là một chuyến bay hoàn toàn mất cả an phi đầy mạo hiểm vì ban đêm tắt đèn dễ lạc nhau nếu bay xa, bay quá gần dễ chặt đuôi bạn và bay thấp dễ chặt cây. Nếu khống chế được những yếu tố trên thì địch chỉ nhìn theo mà chửi thề thôi.
Chúng tôi tin tưởng vào phương thức bay của mình chỉ ngại khi đáp lại vào đầu VC thì rất nguy hiểm. Trong phi vu này ông phi đoàn phó lại cất Hiệp bay đầu chở người và tôi bay chiếc thứ hai chở đầy máy truyền tin điện tử rải dọc tuyến đường bay từ Mỹ Chánh ra đến cổ thành và bay cover cho Hiệp lúc đáp. Tự ái nghề nghiệp lúc ấy đã khiến tôi có thái độ hơi bất mãn, ông phó nhận thấy và gọi nhỏ giải thích. Anh nên biết trong phi vu này chiếc đi sau mới là chiếc quan trọng đòi hỏi nhiều kinh nghiệm khó khăn hơn nhiều. Tôi tin tưởng và xin anh phải cố gắng bám thật sát Hiệp và yểm trợ anh ta tối đa trong mọi tình huống nhất là không bao giờ bỏ rơi bạn bè. Nghe qua lời nhắn nhủ của cấp chỉ huy đáng kính này, tôi cảm thấy mát lòng và hối hận, thương bạn nhiều hơn và tự hứa là sẵn sàng hy sinh theo bạn nếu gặp điều chẳng may trong đêm nay (một điều rất buồn là Hiệp lại bị rớt máy bay chết sau đó vài tháng).
Chúng tôi tính độ dạt của gió, tốc độ, hướng bay và thời gian rồi kẻ phóng đồ phi vụ chờ đêm đến sẽ cất cánh tại phi trường Tây Lộc (Huế) bay thẳng ra Hương Điền (Bộ chỉ huy sư đoàn TQLC) rồi chuyển hướng bay thẳng ra cổ thành Quảng Trị, bãi đáp là một nghĩa trang cạnh cổ thành. Chúng tôi phải ra phố mua sắm đồ thường phục dạo quanh phố như một toán cao bồi Texas trước sự ngạc nhiên của mọi người. Riêng tôi phải gọi về Đà Nẵng mang ra áo lưới phi hành mà tôi luôn trang bị đầy đủ dụng cụ mưu sinh thoát hiểm nhất là khẩu Browing nhỏ và rất nhiều lựu đạn mini. Sở dĩ tôi rất cần và thích lựu đạn vì một lần tôi đã thoát chết nhờ có lựu đạn khi còn ở đơn vị tiểu đoàn 9 nhảy dù. Vào năm 1968, tiểu đoàn đang đóng quân ở chiến trường Tây Ninh, ông Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo, tiểu đoàn phó cắt đại đội 91 ra ái ngữ để đón đại đội 92 đang di chuyển về phải qua một khoảng đất trống rất nguy hiểm. Tôi và anh mang máy cùng hai đệ tử nằm dưới một hố bom B52 hướng về bìa rừng đối diện chờ quân bạn lúc trời sẩm tối. Tôi nghe máy báo là thằng 2 sắp ra (Đại đội 92), tôi thấy một toán lính đi ra nhưng lại không đội mũ sắt, tôi gọi hỏi Đại úy Trương Đưỡng (Đại đội trưởng 91) ông gọi qua 92 để khiển trách nhưng không ngờ đó là VC, chúng mặc áo là quân bạn cứ để chúng tôi tiến về gần nhưng gần đến nơi chúng bắt đầu khai hỏa. Chúng ra từ giữa đồng trống bất thần khai hỏa loạn xạ vào chúng tôi bất thần trở tay không kịp. May là tôi nằm dưới hố bom chúng chẳng thấy chỉ bắn qua đầu tôi gây rất nhiều thương tích cho bộ chỉ huy đại đội phía sau. Tôi vẹt cỏ tranh nhìn thấy chúng dàn hàng ngang súng bắn miệng ho to “hàng sống, chống chết”. Tôi báo tất cả 4 tên rút tất cả lựu đạn chia hướng chờ tôi ra lệnh đồng quăng một lượt khi VC chỉ còn cách 10m. Loạt lựu đạn nổ chúng tôi chạy bán sống bán chết ban đêm lại thất lạc máy lại bị VC đuổi theo, lính mình bị thương súng ống bỏ đầy đường rút lui, mãi gần sáng tôi mới về tới bộ chỉ huy tiểu đoàn được. Nếu không nhờ loạt lựu đạn đó có lẽ tôi đã bị VC dập lên đầu bắn tan xác rồi, âu cũng là một kinh nghiệm đau thương.
Trở lại phi vụ bay đêm, chuẩn bị phi hành đoàn và các thứ, chúng tôi mỗi người một tâm trạng, Hiệp hình như có một tâm trạng đau buồn nào đó nên lúc nào cũng lầm lì ít nói. Tôi chọn được Hoành làm hoa tiêu phó và Định làm cơ phi, hai phi hành viên trong phi đoàn mà tôi rất mến. Thiếu úy Dương Văn Hoành đã là một hoa tiêu chánh, một hoa tiêu ưu tú về mọi phương diện, lúc nào cũng bình tĩnh coi mọi chuyện như pha, Hoành sẽ giúp tôi được an tâm phần nào. Cũng đặc biệt là Hoành lại bị rơi máy bay chết cháy cả 7 người chỉ còn Hoành sống sót thật là một chuyện thần kỳ. Trung sĩ Định cơ phi rất lanh lẹ và gan lì, chúng tôi thường rủ nhau bay chung phi hành đoàn cũng như Lương Ngọc Ánh đang ở Houston với Dương Văn Hoành hiện giờ.
Đêm về, giờ quyết tử đã đến, chúng tối sẵn sàng cất cánh. Trong ánh sáng lờ mờ của phi trường Tây Lộc xuất hiện một đoàn xe có hộ tống một xe bít bùng chạy thẳng đến phi cơ của Hiệp 4 Lôi Hổ dìu 2 tên bị bịt mắt lên phi cơ, 2 tên này mặc quân phục y như Việt cộng, mang ba lô và súng AK đầy đủ. Phi cơ tôi được chất lên đầy máy truyền tin điện tử. Nhìn 2 tên VC tôi vô cùng kinh ngạc, suốt ngày nay tôi đã cố đánh tan mọi sự nguy hiểm sắp xảy ra bằng một quyết tâm sẵn sàng phục vụ cho đại cuộc vì nghĩ rằng có lẽ mình cũng thực hiện một điệp vụ tối mật nào đó để chuẩn bị tái chiếm cổ thành nhưng lại tiếp tay “thả cọp về rừng” hay sao? “Điều này càng chứng minh rõ ràng hơn khi phi cơ dắt 2 tên VC này chẳng chịu xuống phải nhờ 4 lôi hổ tống đạp khỏi phi cơ trong khi tiếng súng bắn ra như mưa”.
Mọi thắc mắc đang còn dồn dập thì chúng tôi phải ồ ạt cất cánh tìm đủ mọi cách tránh né tử thần. Chúng tôi bay trong bóng đêm, lướt qua đầu địch bất ngờ, chúng trở tay chẳng kip, chỉ bắn đuổi theo đạn lửa đầy trời phía sau. Đúng hướng, đúng giờ ấn định, Thiếu úy Hoành báo lệnh đáp, Hiệp quẹo gắt đáp khẩn cấp, tôi bay vòng trên đầu yểm trợ, đạn địch lẻ tẻ bắn vài nơi bên cạnh, tôi ra lệnh 4 khẩu đại liên cùng khai hỏa nhưng cẩn thận nhìn phi cơ bạn vì trời tối đen khó quan sát lại không được mở đèn. Khổ nỗi là 2 tên VC lại cứ đeo sát hai cây chống của phi cơ chẳng chịu xuống, tôi chỉ cho lệnh đạp xuống càng nhanh càng tốt, rất tiếc là chẳng dám cho lệnh bắn bỏ lúc bấy giờ, lúc này thì khác. Bỏ xong hai cục nợ, tôi bay vòng bắn yểm trợ cho Hiệp cất cánh. Lúc này cao độ bay về sao thấy phi cơ mình bay chậm hơn bao giờ hết. Về đáp lại phi trường Tây Lộc, chúng tôi cảm thấy như vừa chết đi sống lại. Phi trường lúc ấy đầy người bù lại lúc nãy trong vùng địch mình cảm thấy cô đơn lẽ loi quá, nếu chẳng may bị bắn rơi chắc là chẳng một ai dám bay ra tiếp cứu mình lúc ấy cả.
Qua hai sự kiện rõ ràng, chỉ vì 2 tên VC mà cả bộ tổng tham mưu, tướng vùng đích thân chỉ huy và sẵn sàng hy sinh bao nhiêu sinh mạng của nhân viên phi hành như thế sao?
Có những điều oan trái mà rất nhiều người lính thấp hèn như chúng tôi phải gánh chịu. Nhưng trong phi vụ này mãi đến bay giờ tôi vẫn chưa được giải thích rõ ràng. Phải chăng có sự lừa đảo hay có một sự đi đêm nào đó của bàn tay lông lá nào mà nỗi buồn nhược tiểu của đất nước chúng ta phải gánh chịu. Lịch sử đã cho chúng ta thấy đất nước mình đã bị bán đứng quá rõ ràng và quá tàn nhẫn. Rất nhiều quân nhân trong chúng ta có thừa can đảm và sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc, nhưng cũng có những lần hy sinh vô nghĩa tác hại lại sự chiến đấu sồng còn của cả một dân tộc.
Cầu xin những ai có thẩm quyền hãy giải thích tường tận cho riêng tôi khỏi còn phải “ân hận” hoặc phải “oán hận” trước khi nhắm mắt . Chân thành cám ơn.
Trong hai phi hành đoàn này vì lâu quá tôi không nhớ hết những ai trong 8 người. Tôi chỉ biết Hiệp đã chết và Định hình như đã chết sau này. Riêng Hoành cũng đã ở tù đi HO sang định cư tại Houston. Xin còn những ai biết rõ hơn mọi chi tiết báo cho tôi được biết, rất cám ơn.
                                                   Dallas, 2-12-2010
                                                   Kingbee Phan Văn Phúc.

   ANH PHÚC ƠI ! MẪN ĐÂY ANH KHỎE KHÔNG...THẾ LÀ TỪ NAY ANH EM MÌNH CÓ DỊP TÂM SỰ CÙNG NHAU RỒI NHÉ

    GỬI ANH BÀI VIẾT NÀY... TR/S NGUYỄN ĐỊNH QUÊ Ở NHA TRANG ...ĐỊNH ĐÃ CHÊT SAU 75.
             MINH MẪN
Ðầu năm 1972 Tôi nhớ có một lần biết phái ra Huế, ở tại một căn cứ tạm của Lực Lượng đặc Biệt , nơi này từ cầu TRƯỜNG TIỀN đi xuống  rẽ trái là Khách Sạn Hương Giang, đi thẳng  500 mét rẽ trái , căn cứ năm gần góc đường phía bên phải , trước kia la khu nội trú Sinh viên, sau trở thành doanh trại Quân cảnh Tư Pháp, rồi  nhường  lại cho LLÐB ở tạm, trong thời gian chờ giải thể. Chúng tôi có Bốn chiếc, hai Phi Hành Ðoàn thay phiên nhau , hôm nay đi ngày mai nghỉ, chỉ có một phi vụ mà xuốt 5 -  6 ngày chưa hoàn thành , Nhiệm vụ thả hai BK mặc thường phục , không trang bị vũ khí, họ nhẩy xuống Cam Lộ, tất cả PHÐ cũng đều phải mặc thường phục màu sậm, để lại địa chỉ cấp báo, và cứ đến chiều tối mới xuất phát , Tôi bay chung với Anh Tr/u  Hiệp  và Th/u nguyễn văn  Tiều , cứ đến  chiều  là bay lên Tây Lộc Standing by,  cho đến  sau  19 giờ là cất cánh , Th/t Tống Phước Hảo và một Tr/T Hoa kỳ đến bắt tay trước khi khởi hành , bay một đoạn , máy bay hỏng vô tuyến phải quay về , ngày hôm sau  hai chiếc khác  , ban ngày Kỹ thuật sửa chữa  tối là làm việc , không hiểu sao cứ chiều Tối,  Máy bay không hỏng cái này,  cũng hòng cái  khác , càng kéo dài nhiều ngày càng mệt , bản thân Tôi cũng thấy mệt mỏi, ban ngày thì nóng , cơm thì khô , thật khó nuốt , lúc nào cũng thấy như không muốn ăn cái gì cả, cứ như no hơi , và một buổi tối tôi năm cạnh Tr/u  Hiệp tôi nghe Anh thở dài , không biết là anh mơ hay tỉnh,  Anh nói “ Thôi thì Cố Ðại Uùy cũng phải ráng , cứ như thế này thì không thể nào chịu nổi ròi “ .
     Qua ngày hôm sau , Tr/u  Hiệp quyết định làm cho xong , dù máy bay có hư hỏng cũng phải cố gắng , đúng 19 giờ 30 chúng Tôi cất cánh , Anh chấm tọa độ và định thời gian từ Tây lộc đến LZ  thời gian bay bao lâu , Anh tắt tất cả Rotortinglight ,  lấy cấp trực chỉ bay thẳng đến LZ , Ðến nơi , Anh yêu cầu chiếc thứ nhì bay lên cao , Anh Descends xuống, thấy đất  mờ mờ Anh lập tức bật Landinglight ,  đáp ngay xuống , đây là một nơi rất quen, nó là  một nghĩa trang , ở dưới địch quân đặt sẵn súng cối , đại bác  phòng không rất nhiều , bất ngờ địch quân chạy tán loạn , hai BK quân  lao xuông  chạy mất dạng , Tr/u Hiệp cất cánh ,tắt hết đèn , bay low leval một đoạn rồi mới mông  tê lên cao , khi về đến nhà , Anh Hảo và trưởng trại ra ôm chúng tôi mừng rỡ, mission đã được hoàn thành.Lần này Tôi được một huy chương Phi Dũng bội Tinh  cánh chim đồng  theo QÐ số  001/SÐ I KQ ngày 23 tháng 02 năm 1972.Và cũng  vào ngày 01 tháng 01 năm 1972 Tôi được lên TRUNG SĨ NHẤT  theo QÐ số 02420/TTM/KQ/NV/ TQT/TTHC/TT  ngày 08 tháng 02 năm 1972.

Viết thêm về Phi Vụ Bay Đêm Cảm Tử

Năm ngoái KingBee Phúc về Cali chơi có đến nhà KB Mạnh, hôm đó có KB Đường, Tuấn..tôi có nhắc đến phi vụ này và KB Phúc nói  Phúc cũng bay chiếc thứ 2  sau Tr/Uy Hiệp trong phi vụ này, tôi hơi ngạc nhiên, nay đọc thấy Tr/sĩ  Định viết rõ là phải 5,6 lần phi vụ mới hoàn tất.
 Tôi bay chiếc số 2 sau Tr/uy Hiệp say, Ngọc A là co-pilot, PHD tôi chỉ có 3 người, 2 pilots và 1 xạ thủ duy nhất là KB Nguyễn Thiện Trí, (Trí hiện ở Saigon). Tôi nhớ Trí mặc đồ civil, tay cầm cây rouleau quay như cowboy, cười giỡn rất vô tư, có lẽ lần đầu bay với đồ civil và cũng có lẽ vì còn rất trẻ không biết hiểm nguy đang chờ chực. Chi tiết giống như KB Phúc kể , tất cả mặc civil, giấy tờ để lại trên chiếc bàn gỗ nhỏ ngay trên bãi cỏ cạnh phi đạo nơi 2 chiếc UH1 đậu, có Th/Tá Hảo, 1 Tr/tá Mỹ, hình như có cả Th/tá Phố hiện diện tại PT Tây Lộc hôm đó để briefings anh em trước khi bay, tôi nhớ là đích thân Đ/tá Phước bay C&C cho phi vụ này trên một chiếc C47 cất cánh từ Đà Nẵng. 
Chập tối hôm đầu khi 2 chiếc bay qua sông Mỹ Chánh (từ sông Mỹ Chánh trở ra là vùng địch chiếm)  thì mưa tầm tã, chiếc tail rotor của Hiệp chao qua chao lại trước mặt tôi, đôi lúc mờ mịt không thấy gì, nguy hiểm vô cùng, tôi  phải báo cáo lên Đại Bàng zero visible vì mưa to, D/t Phuớc cho lệnh hủy bỏ phi vụ hôm sau sẽ làm lại. Làm lại thì làm lại, tôi chẳng lo lắng nhiều, có lẽ vì độc thân bất cần đời, riêng Hiệp thì lo ra mặt, đêm hôm đó Hiệp nhậu say,  sáng hôm sau Hiệp đánh telegram về cho vợ, đại ý ráng nuôi con nếu Hiệp phải hy sinh. Tôi với Hiệp cả ngày hôm đó la cà ở cư xá LLDB gần khách sạn Hương Giang đến 6g chiều mới vô pt Tây Lộc để tiếp tục phi vụ.
Chập tối  hôm đó trời có mây nhưng không mưa, theo briefings như hôm trước, phi vụ sẽ bay qua 3 checkpoints A, B và C.
Từ Mỹ Chánh bay thẳng về hướng Bắc 12 phút, tốc độ 80 knots đến checkpoint A là thôn Mỹ Thủy gần biển, tại đây sẽ thả vài cây antenne báo động (motion-detector sensors) , vùng này cát trắng tinh, bay low level , chiếc 2 bay cao hơn chiếc 1 chừng 50Ft, an toàn vì thấy rõ chiếc 1 in trên cát trắng. Trên đường đến check point B , trời tối hơn, cát trắng thưa thớt nên gay go bắt đầu khi tiếng đạn địch ân cần chào đón, Từ  Mỹ Thủy lấy hướng Tây bay 12 phút (80knots)  xéo lên hướng Bắc một chút (285o) để tránh TP Quảng Trị, băng ngang QL1, đến check point B ở phiá bắc Ái Tử, tại đây cũng thả vài cây sensors nữa, tiếng AK rất gần nổ dòn như pháo tết, sau đó bay đúng 12 phút nữa, khoảng giữa Ái Tử và Đông Lương để đến checkpoint C, đáp ở phía nam Cam Lộ giữa một nghĩa địa cát trắng để thả 2 VC xuống.  Khoảng 3 phút trước khi đáp điểm C, tầu tôi  bị hàng trăm khẩu AK bắn với theo, có lẽ bay ngang ổ kiến lửa ?, rất may chỉ dính 2 lỗ trên tail boom.
Vì 3 con số 12 phút trùng hợp này nên tôi nhớ mãi cho đến hôm nay. 
Phi vụ bắt buộc phải bay low level nên không thấy được các checkpoints, co-pilot phải check đồng hồ từng phút cho pilot bay, bay đúng phút và tốc độ đã định là đến checkpoints, bay chậm lại, thả sensors xuống rồi bay tiếp ngay đúng như chỉ dẫn trong briefings. 
Khi bay về lại Tây Lộc, trời tối hẳn, Hiệp và tôi chúi mũi phóng120 knots thẳng ra biển, lên 2000ft đã thấy đèn đuốc thành phố Huế rực sáng trước mặt.
Trong phi vụ này tôi bay chiếc số 2 có 2 ngày và KB Phúc cũng bay 2 ngày nên dù sao căng thẳng không kéo dài, riêng chiếc số 1 chỉ có mình Tr/Uy Hiệp phải gồng liên tiếp 5,6 ngày mà không được thay thế, kể cũng căng thật !.
 Tất cả chúng ta là NHÀ BINH, luôn thi hành trước, khiếu nại sau ..nhưng bao năm bay bổng có nghe ai khiếu nại điều gì bao giờ đâu ?!,  trái lại tuổi trẻ lúc nào cũng vui và mau quên, ngày nào không bay thì buồn so.
Sau phi vụ đó tôi cũng thắc mắc tại sao lại thả 2 tên VC xanh xao, về lại vùng địch chiếm làm quái gì ? . Briefings cũng cho biết nếu 2 tên VC này tìm cách trở về được thì coi như mission thất bại ? Lạ thiệt !
Sau 25 năm những hồ sơ Top Confidential của Mỹ đã được bạch hóa. Phi vụ đã gần 40 năm rồi, mong các NT và các bạn có mặt hôm đó, nếu biết rõ chi tiết, xin bạch hoá cho anh em biết thêm để hết ..thắc mắc !
KbDq`


Toi bay gio moi biet ro nhung dien tien xay ra trong thoi gian do. Nhung ngay dau cua Biet Doi, toi duoc cu dan BD ra biet phai Hue,( khi do PD moi ve Nha Trang). Khi PD ra Hue duoc may ngay BD duoc mot vi Chi Huy cua SCT moi di hop ve Phi Vu nay, va buoi toi ho con dua anh em di dai an o Quan Com Am Phu. Khi do toi thuong chon bay voi Hoanh copil, DM Sanh Mevo va ??? gunner (Man nho cho them chi tiet nay nhe, Khi con bay H34, Man thuong di Mevo cho toi). Nhung chua thi hanh phi vu nay, toi duoc Nha Trang danh dien ra phai ve gap trinh dien de roi PD va cu mot BDT khac ra thay the.

Khi ve toi Nha Trang toi duoc Th/T Pho cap cho mot UH va mot PHD dua ve SGN trinh dien, toi nho luc do Tr/U Le The Hung ngoi copil bay voi toi ve SGN de sau do se mang may bay tro lai Nha Trang. Neu toi khong nho lam thi Long Co ngoi thung de khi ve bay voi Hung, Mevo la DM Sanh).  Hung sau da anh dung hy sinh o tran Ban Me Thuot, Hiep va 6 nguoi nua hy sinh o Phu Bai, Toi cung da den Tu Si Duong o TSN niem huong cho anh em khi do. Phuc,  Hoanh va Anh toi co dip gap o Houston vao dip Dem Khong Gian o Houston vao nhung nam 2004,5...Nam 2004? toi co dip ghe Little Saigon gap Quynh, Tung, Manh, va ???. Va ve sau toi thuong gap Man va cac KBs khac o VN. Toi roi PD vao giua nam 1972, va khoang 3 nam sau chot toi da thuyen chuyen qua 4 PD nhu 221 o BH, 243 o PC, 233 o DN va sau cung la 245 o BH, nhung khong noi nao toi co cam nghi "belonged" nhu o PD 219.  

Toi van thac mac ve phi vu do, nay duoc Phuc ke lai toi moi biet ro duoc. Cam on Phuc, Quynh. Va nho do ma toi oi nho ra nhung anh em bay chung trong Biet Doi cua toi thoi ky do. Day la mot cau toi trich tu Website MACSOG cua LLDB/Hoa Ky ma toi muon chia se  voi anh em 219 va NKT:

You have never lived until you have almost died.
For those who fight for it, life has a flavor that the protected will never know!

NTDzu~ng